kiện đòi tài sản
a) Đối với những vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế tài sản mà trước ngày 01-01-2017, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết" nhưng theo quy định tại
Trường hợp khởi kiện đòi tài sản sau ly hôn, ngôi nhà là tài sản được hình thành trong thời kì hôn nhân của 2 vợ chồng, không phải được xây dựng từ khoản tiền do vợ/chồng được tặng cho hay thừa kế riêng.. nên đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng trong thời kì
ÁN LỆ SỐ 50/2021/ALVề quyền khởi kiện vụ án đòi lại tài sản của người được giao tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luậtĐược Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2021 và được công bố theo Quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chánh án
Bi hài chuyện thông gia kiện thông gia để đòi sính lễ. Vì các con không thành vợ, thành chồng nên hai bên thông gia quyết kiện ra tòa để đòi lại sính lễ mà mình đã vội trao cho bên thông gia hụt. TAND TP.HCM vừa xử sơ thẩm một vụ kiện hy hữu về tranh chấp đòi tài sản
(4) Vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu; (5) Các trường hợp khác pháp luật quy định.
Tu Ne Rencontre Personne Par Hasard. HỒ SƠ MẪU VỤ ÁN KIỆN ĐÒI TÀI SẢNHồ sơ mẫu cho bài kiểm tra thực hành dành cho các bạn luật sư tập sự tham khảo để chuẩn bị bước vào kỳ kiểm tra sát hạch luật NÓI ĐẦUKính thưa– HỘI ĐỒNG KIỂM TRA HẾT TẬP SỰ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ– BAN CHỦ NHIỆM ĐOÀN LUẬT SƯ NỘI Tôi tên Phạm Thùy A, là người tập sự hành nghề luật sư tại Công ty Luật B – Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội. Trong quá trình tập sự tại Công ty luật B tôi được Luật sư NGUYỄN VĂN C, giám đốc điều hành đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện cho tiếp cận hồ sơ vụ việc để nghiên cứu, tham gia thảo luận, soạn thảo các đơn thư và đưa ra quan điểm của mình về giải quyết các vụ việc và tham dự phiên tòa xét xử. Thực hiện quy định về kiểm tra hết tập sự luật sư. Tôi xin kính trình Hội đồng kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư, hồ sơ kiểm tra thực hành của tôi. Bài kiểm tra hết tập sự luật sư này, được xây dựng trên cơ sở một vụ án dân sự mà Công ty Luật Tiền Phong được khách hàng – là nguyên đơn mời,để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Vụ án đã kết thúc tốt đẹp theo đúng yêu cầu và mong mỏi của khách hàng. Tuy nhiên, vì kiến thức pháp luật và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên trong bài kiểm tra thực hành này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong Ban giám khảo của Hội đồng kiểm tra hết tập sự, Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội giúp đỡ, góp ý để tôi có thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm để phục vụ cho quá trình hành nghề luật sư sau này. Xin trân trọng cảm ơn Ban giám khảo Hội đồng kiểm tra hết tập sự, Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư Tp Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi tham dự đợt kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư lần này. Cảm ơn Luật sư NGUYỄN VĂN C, giám đốc Công ty Luật B đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tập sự cũng như hướng dẫn, góp ý cho tôi thực hiện hồ sơ kiểm tra thực hành trọng,Hà Nội ngày 25/4/2016 Người tập sự hành nghề Luật sưPHẠM THÙY AMỤC LỤCSố thứ tựNội dungTrangPHẦN ITÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆCICĂN CỨ TIẾP NHẬN VỤ VIỆCIITÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆCIIIYÊU CẦU CỦA KHÁCH HÀNG VÀ PHẠM VI CÔNG VIỆC ĐƯỢC LUẬT SƯ HƯỚNG DẪN PHÂN CÔNGPHẦN IIPHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT VỤ ÁNICĂN CỨ PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆCIIBẢN CHẤT VÀ QUAN HỆ PHÁP LÝ PHẢI GIẢI QUYẾTIIIÝ KIẾN TƯ VẤN HOẶC QUAN ĐIỂM BÀO CHỮA LƯU Ý LÀM CHẶT CHẼPHẦN IIIKẾT QUẢ THỰC HIỆN VỤ ÁNINỘI DUNG CÔNG VIỆC THỰC HIỆN THEO PHÂN CÔNG CỦA LUẬT SƯ HƯỚNG DẪNIIKẾT QUẢ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆCPHẦN IVBÀI HỌC KINH NGHIỆM, KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤTPHỤ LỤCDANH MỤC TÀI LIỆU ĐÍNH KÈMHỒ SƠ KIỂM TRA THỰC HÀNHVỤ ÁN DÂN SỰV/v ĐÒI TIỀN Luật sư NGUYỄN VĂN C, Giám đốc Công ty Luật B, tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà ITÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN CĂN CỨ TIẾP NHẬN VỤ VIỆCNgày 9 tháng 02 năm 2015, tại Công ty đã ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng là Ông Lê Hoàng, sinh năm 1950, có hộ khẩu thường trú tại …… Hà Nội. Nhận thấy, vụ án này là cơ hội rất tốt để cho tôi học hỏi thêm các kĩ năng về tranh tụng nên tôi chủ động yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư nơi tôi đang tập sự được tham gia toàn bộ quá trình tố tụng của vụ án cho đến phiên tòa sơ thẩm trong vụ án Luật sư hướng dẫn Luật sư NGUYỄN VĂN C TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆCĐầu năm 2011, vợ chồng Ông Lê Hoàng có nhu cầu mua đất để xây nhà ở lâu dài nên tìm đến gặp Đỗ Thị Hương để đặt vấn để mua lô đất G12-L01 Khu A Dương Nội của Tập đoàn X mà bà Hương đang rao bán với giá trị của lô đất là 8,2 tỷ 28/01/2011, ông Hoàng đã giao cho Hương số tiền 7,7 tỷ đồng để mua lô đất trên. Đỗ Thị Hương đã viết cho ông Dư “ giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” và Giấy biên nhận tiền; đồng thời cũng giao cho ông Dư văn bản xác nhận góp vốn của tập đoàn Nam Cường đứng tên ông Nguyễn Ngọc Minh cùng phiếu thu thời hạn 2 tuần như đã hứa, bà Hương vẫn không làm được thủ tục để ông Hoàng ký hợp đồng mua lô đất G12-L01 với tập đoàn gian sau đó, bà Hương vẫn khất lần việc sang tên lô đất cho ông Hoàng. Tìm hiểu ra ông Hoàng mới biết, khu G trong đó có lô đất G12-l01 tập đoàn X không có kế hoạch phát triển nữa và đã thông báo cho khách hàng từ cuối năm 2010, theo đó mọi khách hàng sẽ chuyển sang khu khác, khách hàng nào không chuyển coi như đã hủy hợp 18/9/2012 tập đoàn X có ra công văn số 223/CV-NCHN trả lời đơn kiến nghị của bà Hương “Việc chuyển nhượng lô đất nêu trên giữa ông Nguyễn Ngọc Minh và bà Đỗ Thị Hương là không đúng quy định của pháp luật vì ông Minh chưa ký bất kỳ một thỏa thuận, hợp đồng hoặc thủ tục gì liên quan đến việc mua bán chuyển nhượng lô đất nêu trên…”Do bà Hương không thực hiện cam kết đã viết ngày 13/4/2012 nên ngày 13/3/2013 bà Hương có viết giấy cam kết và giao cho ông Hoàng giữ một số giấy tờ để làm tin gồmGiấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ đỏ diện tích 1050m2 đứng tên bà Hương tại địa chỉ Thôn Yên Mỹ – xã Bình Yên – huyện Thạch Thất – Hà đồng góp vốn căn hộ E28B56 diện tích 100,1m2 đã đóng tiền 70% đứng tên bà thu tiền lô đất Q1 – C20 thuộc dự án “Thung lũng – Thanh Xuân” địa chỉ Công ty cổ phần Thanh Xuân-Thị xã Vĩnh Yên – tỉnh Vĩnh PhúcBà Hương cam kết hết tháng 10/2013 nếu không giải quyết được thì số tài sản trong giấy tờ trên thuộc quyền sở hữu của ông 03/5/2013 bà Hương chính thức xác nhận bà chưa thể ra hợp đồng đứng tên ông theo thỏa thuận và lại hứa sẽ thu xếp trả tiền cho ông vào tháng 9/2013. Nếu hết thời gian đã hứa mà không trả tiền cho ông thì những tài sản trong các giấy tờ bà Hương đã giao cho ông ngày 13/4/2012 thuộc sở hữu của ông. Bà Hương có trách nhiệm ra công chứng sang tên cho nhiên, bà Hương vẫn không chịu thực hiện cam kết và chỉ khất lần. Ngày 16/9/2013 bà Hương bất ngờ chuyển nhà mà không cho ông Hoàng biết địa chỉ. Ông Dư gọi điện rất nhiều lần thì bà Hương đều trả lời không có tiền để trả. Vì vậy, tháng 11/2013 ông mới làm đơn tố cáo bà Hương về hành vi lừa đảo. Tại cơ quan cảnh sát điều tra Hà Nội, bà Hương đã trả cho ông Hoàng triệu đ, còn lại 7 tỷ quan điều tra đã có kết luận công văn về việc kết quả xác minh, giải quyết tố giác tội thì có nội dung “…tập đoàn X có văn bản gửi Cơ quan điều tra khẳng định Lô đất G12-L01 khu đô thị mới Dương Nội của Tập đoàn X sẽ đơn phương thanh lý giấy xác nhận góp vốn và trả lại tiền cho ông Minh theo quy định của pháp luật. Tập đoàn X không chấp nhận việc mua bán chuyển nhượng giữa ông Minh và bà Hương, tập đoàn X không liên quan gì đến bà Hương và ông Hoàng. Bà Hương không có quyền gì với lô đất G12-L01 của tập đoàn X. Vì vậy cơ quan thấy bà Hương không có gì để chuyển nhượng cho ông Hoàng, bà Hương phải có trách nhiệm trả lại tiền cho ông Hoàng, kèm theo lãi suất hai bên đã thỏa thuận. Đây là tranh chấp dân sự, nếu hai bên không thỏa thuận giải quyết được thì đề nghị Tòa án nhân dân giải quyết theo quy định của pháp luật”. Như vậy, bằng kết luận này, cơ quan điều tra đã khẳng định giao dịch giữa ông Hoàng và bà Hương là giao dịch dân 3 năm 2014, ông Hoàng làm đơn khởi kiện ra Tòa Án quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để kiện đòi tài sản mà nguyên đơn là bà Đỗ Thị Hương với 4 nội dung yêu cầu khởi kiện sauTuyên giao dịch vô hiệuYêu cầu bà Hương trả lại tiền 7 tỷ và lãi suất theo quy định của ngân hàng nhà nướcBồi thường thiệt hạiÁp dụng biện pháp khẩn cấp tạm 8/5/2014, Tòa án đã thụ lý vụ đó, Tòa án có ra thông báo gửi các chủ đầu tư và Phòng Tài nguyên Môi trường nơi có tài sản là bất động sản của Đỗ Thị Hương nhằm xác minh thông tin tài sản và yêu cầu hạn chế giao dịch với những tài sản 6/9/2014, Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng phiên tòa phải hoãn 3 lần, lần thứ 3 là ngày 29/10/ 29/11/2014, Tòa án có thông báo số 21A/TB-TA với nội dung “Tòa án nhận được đơn khiếu nại của chị Đỗ Thị Hương và anh Phạm Hồng Kỳ. Vì vậy, cần chờ kết quả giải quyết khiếu nại mới mở lại phiên tòa được. Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa sẽ được Tòa án thông báo sau.”Được biết bị đơn khiếu nại về 1 thẩm quyền tòa án với đề nghị chuyển hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân quận Tây Hồ giải quyết; 2 khiếu nại về các văn bản Tòa án quận Hai Bà Trưng phát hành yêu cầu dừng các giao dịch tài sản của Đỗ Thị Hương là trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bị điểm của Bà Đỗ Thị Hương bị đơn bác toàn bộ khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Hoàng; yêu cầu ông Hoàng tiếp tục thực hiện hợp đồng và đưa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Ngọc Minh và tập đoàn X vào vụ án đòi mốc giao dịch cụ thể giữa bà Hương và ông HoàngNgày 28/01/2011 Bà Hương viết Giấy nhượng quyền sử dụng đất cho ông Dư và Giấy biên nhận số tiền 7,7 tỷ do ông Hoàng 13/4/2012 Bà Hương viết Giấy biên nhận với nội dung cam kết lần 1 nếu hết ngày 31/5/2012 mà không ra được hợp đồng đứng tên ông Hoàng thì sẽ “thu xếp tài chính” để trả lại cho ông Hoàng 7,7 tỷ, thời gian chuyển tiền trong vòng 20 ngày, kể từ ngày 31/5/ 13/3/2013, Bà Hương viết Giấy cam kết cam kết lần 2 và Biên bản nhận giấy tờ với nội dung thể hiện bà Hương giao cho ông Hoàng một số giấy tờ tài sản của vợ chồng bà Hương và cam kết đến tháng 10/2013 sẽ giải quyết với ông Minh. Nếu sau thời gian trên mà không giải quyết xong thì số tài sản trên thuộc quyền sở hữu của ông 03/5/2013 Bà Hương viết Giấy cam kết cam kết lần 3 cam kết “sẽ thu xếp số tiền mà tôi đã nhận của anh Hoàng là đồng đến cuối tháng 9/2013 tôi sẽ thanh toán”; “nếu hẹn trong tháng 10 mà không thu xếp được tiền trả cho anh Hoàng thì những tài sản trên sẽ thuộc quyền sở hữu của anh Hoàng. Tôi sẽ ra công chứng sang tên anh Hoàng”Giao dịch của bà Hương với ông MNgày 13/1/2011, Bà Đỗ Thị Hương và ông Nguyễn Ngọc M thực hiện giao dịch Hợp đồng chuyển nhượng quyền góp vốn để được mua đất và phần vốn góp của ông Nguyễn Ngọc M với tập đoàn X. Anh M đã giao cho bà Hương giấy biên nhận tiền trị giá triệu đ và văn bản xác nhận góp vốn đứng tên ông Nguyễn Ngọc M cho bà Đỗ Thị văn bản của tập đoàn XNgày 23/02/2012, X làm việc với ông Nguyễn Ngọc Minh về việc lô đất G12 – L01 Khu A Dương Nội không đủ điều kiện chuyển nhượng, đề nghị ông M chuyển sang lựa chọn lô khác nhưng ông M không đồng ý;Ngày 18/9/2012, X có văn bản gửi bà Hương khằng định lô đất chưa đủ điều kiện chuyển nhượng, đã thông báo cho ông M nhiều lần; đồng thời X cũng khẳng định giao dịch giữa bà Hương và ông M là “không có căn cứ và vi phạm các quy định của pháp luật đất đai cũng như quy định của Tập đoàn X”;Ngày 23/12/2013 X có văn bản gửi Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an TP. Hà Nội khẳng định+ Không chấp nhận việc chuyển nhượng giữa ông M và bà Hương;+ Lô đất G12 – L01 vẫn chưa đủ điều kiện để chuyển nhượng do vướng mặt bằng, dân không nhận tiền đền bù;+ X đã thông báo cho ông Minh biết lô đất không đủ điều kiện chuyển nhượng từ cuối năm 2010 thông báo bằng điện thoại;+ Quan điểm của X Lô đất G12 – L01 không đủ điều kiện chuyển nhượng, X sẽ đơn phương thanh lý vốn góp, trả lại tiền cho ông M; Tập đoàn không chấp nhận việc mua bán giữa ông M và bà 19/6/2014, Văn phòng LS Yđược X ủy quyền trả lời bà Hương, khẳng định giao dịch giữa ông M và bà Hương là không đúng pháp luật, hướng dẫn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp;Ngày 28/10/2014, X có văn bản trả lời cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an TP. Hà Nội thể hiện+ Ngoài Giấy xác nhận đăng ký góp vốn xây dựng hạ tầng khu đô thị mới Dương Nội ngày 19/11/2009, X và ông M chưa ký kết bất kỳ thỏa thuận nào liên quan đến lô đất G12 – L01;+ Buổi làm việc ngày 23/02/2012, X đã thỏa thuận với ông Minh về việc lô đất G12 – L01 chưa đủ điều kiện chuyển nhượng; Hai bên vẫn chưa thống nhất được ý kiến giải quyết vấn đề này;+ Tình trạng lô đất G12 – L01 tại thời điểm hiện tại Lô đất vẫn tồn tại, nhưng chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để chuyển nhượng cho khách hàng do chưa hoàn thành việc xây dựng phần văn bản trả lời của cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Hà Nội Ngày 04/3/2014, Cơ quan Cảnh sát điều tra, công an Thành phố Hà Nội đã ra thông báo số 471, thông báo cho ông Hoàng kết quả xác minh, giải quyết tố giác tội phạm, khẳng định “bà Hương không có quyền gì với Lô đất G12 – L01 […], bà Hương không có gì để chuyển nhượng cho ông Hoàng, bà Hương phải có trách nhiệm trả lại tiền cho ông Hoàng, kèm theo lãi suất hai bên đã thỏa thuận”Quá trình giải quyết vụ án của TAND quận Hai Bà Trưng– Ngày 08/5/2014, TAND quận Hai Bà Trưng thụ lý vụ án.– Ngày 06/9/2014, TAND quận Hai Bà Trưng ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời gian mở phiên tòa dự kiến là ngày 24/9/2014.– Ngày 24/9/2014, Tòa án hoãn phiên tòa lần 1 do người đại diện theo ủy quyền của bị đơn có đơn xin vắng mặt;– Ngày 29/9/2014, Tòa án hoãn phiên tòa lần 2.– Ngày 29/10/2014, Tòa án hoãn phiên tòa lần 3 với lý do luật sư bị đơn xin hoãn để nghiên cứu hồ sơ.– Ngày 29/11/2014, Tòa án ra Thông báo số 21A/TB-TA với nội dung “Ngày 29/11/2014, Tòa án nhận được đơn khiếu nại của chị Đỗ Thị Hương và anh Phạm Hồng Kỳ. Vì vậy, cần chờ kết quả giải quyết đơn khiếu nại mới mở lại phiên tòa được. Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa sẽ được Tòa án thông báo sau.”Trong quá trình tố tụng của vụ án, bị đơn không hợp tác nhằm gây khó khăn và trở ngại cho việc tố tụng bằng các hành vi cụ thể Liên tục yêu cầu hoãn các phiên tòa, thực hiện việc khiếu nại khiếu kiện để kéo dài thời gian vụ án…III/ YÊU CẦU CỦA KHÁCH HÀNGYêu cầu Tòa án tuyên bà Đỗ Thị Hương và ông Phạm Hồng Kỳ chồng bà Hương phải trả lại số tiền 7 tỷ đồng mà ông Hoàng đã trả khi giao dịch chuyển nhượng lô đất G12-L01 tại khu đô thị mới Dương Nội và lãi suất theo quy định của pháp luật là 2. 123. 037. 500 đồng. PHẠM VI CÔNG VIỆC ĐƯỢC LUẬT SƯ HƯỚNG DẪN PHÂN CÔNG– Tiếp xúc ban đầu với khách hàng;– Kết nối khách hàng với luật sư để tiến hành làm việc;– Cùng luật sư hướng dẫn thu thập đi sao chụp tài liệu;– Cùng tham gia phiên tòa cùng luật sư hướng dẫn sau khi được thẩm phán chấp thuận;– Nghiên cứu hồ sơ, trao đổi cùng luật sư hướng dẫn về hồ sơ vụ án, chuẩn bị bài phát biểu, dự thảo luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn Tổng hợp đánh giá toàn bộ hồ sơ vụ 2PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT VỤ VIỆCI/ CĂN CỨ PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT VỤ luật Tố tụng dân sựBộ luật Dân sựLuật Cư trúQuyết định 2868-QĐNHNN quy định về mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hiệu lực thi hành 01/10/2010 BẢN CHẤT VỤ VIỆC VÀ QUAN HỆ PHÁP LÝ PHẢI GIẢI QUYẾTBản chất vụ ánTại giấy chuyển nhượng ngày 28/1/2011, với các văn bản, hồ sơ giấy tờ có liên quan đến vụ án, cùng các biên bản làm việc với cơ quan điều tra công an thành phố Hà Nội. Bà Hương đều thừa nhận nhận của ông Hoàng, bà Thúy vợ ông Hoàng số tiền 7,7 tỷ đồng để chuyển nhượng lô đất G12-L01 khu đô thị Dương Nội. Sau nhiều lần hứa hẹn bà Hương không thực hiện được cam kết nêu trên. Đến ngày 13/4/2012 bà Hương đã cam kết trả lại số tiền 7,7 tỷ và lãi suất theo thỏa thuận trước đó của các bên. Như vậy trong vụ án này là vụ án Dân sự về việc yêu cầu đòi lại tài sản với số tiền 7 tỷ cả gốc và lãi cho đến thời điển xét xử vụ vấn đề cần giải Đánh giá tính hợp pháp các yêu cầu của khách hàng là nguyên đơnThứ nhất Yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự ngày 28/01/2011 của ông Hoàng và bà Hương là vô hiệuTheo văn bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/01/2011 do 2 bên lập, luật sư nhận thấy việc ông Nguyễn Ngọc M nộp một trăm triệu đồng tại công ty cổ phần tập đoàn X nên được công ty cấp giấy xác nhận đăng ký góp vốn đứng tên ông M. Giấy xác nhận này không thể hiện nội dung công ty X chuyển nhượng quyền sử dụng đất lô G12-L01 cho ông M, mà chỉ có ý nghĩa sau khi lô đất G12-L01 đủ điều kiện chuyển nhưởng thì ông M được quyền ưu tiên mua lô đất nêu trên. Như vậy, lô đất C12-L01 chưa thuộc quyền sử dụng của ông M, ông M đem chuyển nhượng là vi phạm cam kết với chủ đầu tư và vi phạm pháp luật. Do giao dịch ông M và bà Hương không được chủ đầu tư chấp nhận nên bà Hương không thể làm được hợp đồng để ông Hoàng được quyền ký hợp đồng với chủ đầu tư là tập đoàn X như cam kết ngày được. Nếu các bên dừng quan hệ dân sự tại thời điểm này thì quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa và Hương và ông Dư là giao dịch dân sự vô sau hơn 01 năm, vào ngày 2012 bà Hương đã viết “Giấy cam kết” có nội dung Việc chuyển nhượng giữa 2 bên không thành bà sẽ có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số tiền đã nhận cho ông Hoàng và tiền lãi suất theo ngân hàng”. Như vậy, kể từ ngày giữa bà Hương và ông Hoàng đã chuyển giao dịch từ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sang giao dịch xác nhận nợ với nhau. Theo đó, bà hương cam kết trả 7,7 tỷ đồng cũng lãi suất ngân hàng. Đây là sự thỏa thuận tự nguyện của nguyên đơn và bị đơn và không trái với quy định pháp luật hiện hành. Giả sử, trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện ông Hoàng, tuyên bố giao dịch ngày 28/01/2011 vô hiệu thì luật định, 2 bên sẽ phải trao trả những gì đã nhận. Như vậy, bà Hương chỉ phải trả số tiền gốc còn lại là 7 tỷ đồng mà không kèm theo lãi suất. Nhận thấy, đây là điểm bất lợi rất lớn của khách hàng khi không được hưởng phần lãi suất mình phải được hưởng, luật sư đã hướng dẫ khách hàng rút yêu cầu khởi kiện tuyên bố giao dịch dân sự ngày 28/01/2011 giữa ông Hoàng và bà Hương là vô hiệu ngay khi xét xử tại phiên tòa sơ thẩmThứ hai Yêu cầu về bồi thường thiệt hại do bà Hương có lỗi trong việc để cho giao dịch dân sự bị vô hiệu theo quy định của pháp yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự ngày 28/01/2011 của nguyên đơn là ông Hoàng và bị đơn là bà Hương là vô hiệu, đã được luật sư đã tư vấn rút nên yêu cầu thứ 2 về bồi thường thiệt hại sẽ không có cơ sở để thực hiện. Thực tế, để chứng minh thiệt hại và yêu cầu bồi thường dân sự rất khó khả thi. Vì vậy, đối với yêu cầu về bồi thường thiệt hại, luật sư cũng yêu cầu khách hàng xin rút ngay khi xét xử tại phiên tòa sơ thẩmThứ ba Về yêu cầu đòi tiền nợ gốcCăn cứ hồ sơ vụ án cho thấy Giấy biên nhận tiền của bà Hương ngày 28/01/2011 thể hiện bà Hương đã nhận của ông Hoàng 7,7 tỷ đồng. Các cam kết của bà Hương, các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án cũng khẳng định số tiền bà Hương đã nhận của ông Dư là 7,7 tỷ đồng và bà Hương cam kết sẽ trả lại cho ông Hoàng, nhưng bà Hương đã không thực hiện cam kết của 21 và ngày 28/01/2014 bà Hương đã hai lần trả tiền cho ông Hoàng, lần đầu 530 triệu đồng và lần 2 là 170 triệu đồng, tổng số tiền bà Hương đã trả là 700 triệu đồng. Như vậy, tổng số tiền bà Hương còn đang chiếm giữ của ông Hoàng là 7 tỷ đồng. Căn cứ Điều 256 BLDS 2005 về quyền đòi lại tài sản “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”Từ các căn cứ trên, ông Hoàng có quyền khởi kiện yêu cầu bà Hương phải trả lại số tiền 7 tỷ đồng đang chiếm giữ trái pháp luậtThứ tư Về yêu cầu đòi tiền lãi cứ hồ sơ vụ án cho thấy Ngày 13/4/2012, bà Hương đã lập giấy cam kết nếu hết ngày 31/5/2012 mà không ra được hợp đồng chuyển nhượng lô đất đứng tên ông Hoàng thì sẽ trả lại cho ông Hoàng toàn bộ số tiền 7,7 tỷ đồng, kèm theo lãi suất ngân hàng; thời hạn giao tiền là trong vòng 20 ngày, tức là từ ngày 01/6/2012 đến ngày 20/6/ vậy, nghĩa vụ trả tiền của bà Hương đã phát sinh từ ngày 01/6/ quy định tại Điều 290 Bộ luật dân sự 2005 về Nghĩa vụ trả tiền thì “Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.Giữa ông Hoàng và bà Hương không có thỏa thuận nào về việc bà Hương không phải trả lãi; bản thân bà Hương cũng đã cam kết sẽ trả cả tiền nợ gốc là 7,7 tỷ đồng và tiền lãi cho ông Hoàng. Như vậy, nghĩa vụ trả tiền lãi cho ông Hoàng theo cam kết của bà Hương phát sinh cùng thời điểm với nghĩa vụ trả tiền là ngày 01/6/ hồ sơ, giấy biên nhận ngày 13/4/2012 bà Hương không cam kết mức lãi suất cụ thể mà bà Hương phải trả cho ông Hoàng mà chỉ nêu chung chung là “kèm theo lãi suất ngân hàng” nên cần xác định lãi suất bà Hương phải trả dựa trên mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công thời hạn cam kết trả tiền ngày 20/6/2012, bà Hương vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho ông Hoàng. Vì vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 305 BLDS về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì“…bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Ông Hoàng và bà Hương cũng không có thỏa thuận nào về việc bà Hương không phải trả phần lãi chậm thanh toán này. Như vậy bà Hương có nghĩa vụ phải trả lãi chậm trả cho ông 1 Quyết định 2686/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/12/2010 quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/ các lập luận nêu trên, có căn cứ xác định bà Hương phải trả tiền lãi theo cam kết và tiền lãi chậm trả cho ông Hoàng với mức lãi suất là 9%/ Xác định thẩm quyền xét xử vụ ánCăn cứ vào quy định của Bộ Luật Tố tụng Dân sự tại Điều 35 về thẩm quyền tòa án theo lãnh thổ Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định là tòa án nơi bị đơn cư trú, làm điều 8 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP của HĐTP TANDTC hướng dẫn điều 35 Luật Tố tụng Dân sự thì Việc xác định nơi cư trú, làm việc, nơi có trụ sở quy định tại Điều 35 của BLTTDS được xác định tại thời điểm nộp đơn khởi cứ Điều 52 Bộ Luật Dân sự quy định về nơi cư trú“1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh cứ Điều 12 Luật Cư trú hiện hành quy định về nơi cư trúNơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.”Căn cứ vào các loại văn bản, giấy tờ Bị đơn cung cấp cho Nguyên đơn từ khi xác lập giao dịch cho đến ngày nguyên đơn khởi kiện đều thể hiện bị đơn thường trú tại số 18, ngách 102/1 Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, thể hiện trong– Giấy chuyển nhượng lô đất được hai bên xác lập ngày 28/01/2011;– Giấy biên nhận tiền bị đơn viết ngày 28/01/2011;– Giấy biên nhân bị đơn viết ngày 13/4/2012 cam kết không ra được hợp đồng sẽ trả lại nguyên đơn tiền và lãi suất;– Giấy cam kết do bị đơn viết ngày 13/3/2013 hứa thu xếp trả tiền;– Giấy cam kết bị đơn viết ngày 03/5/2013 về việc trả tiềnCăn cứ vào các văn bản giải quyết của các tổ chức liên quan, cụ thể– Văn bản trả lời số 471 ngày 04/3/2014 của Công an Hà Nội trả lời nguyên đơn Lê Đức Dư về kết quả xác minh, tố giác tội phạm đã xác định Đỗ Thị Hương có hộ khẩu thường trú tại số 18, ngách 102/1 Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.– Văn bản số 25/VPLSVD ngày 19/6/2014 của Văn phòng luật sư Y đại diện ủy quyền cho chủ đầu tư Tập đoàn X trả lời bà Hương về lô đất G12-L01 cũng thể hiện bà Hương trú tại số 18, ngách 102/1 Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.– Văn bản số 206/2015/CV – NCHN ngày 27/8/2015 của Tập đoàn Nam Cường gửi Tòa án quận Hai Bà Trưng vẫn khẳng định bà Hương có địa chỉ tại số 18, ngách 102/1 Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Hà cứ các đơn từ của bị đơn Hương khi làm việc với Tòa án, công an thành phố đều khẳng định hộ khẩu thường trú là số 18, ngách 102/1 Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Hà cứ văn bản xác nhận ngày 02/12/2015 của Công an phường Thanh Nhàn quận Hai Bà Trưng khẳng định hiện nay bị đơn Đỗ Thị Hương vẫn đang đăng ký thường trú tại địa chỉ số 18, ngách 102/1 Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Hà các cơ sở trên khẳng định rằng Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng có thẩm quyền giải quyết trong vụ án Đánh giá những yêu cầu của bị đơnBị đơn yêu cầu Nguyên đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng và đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Ngọc M và Tập đoàn X trong vụ là không có cơ sở bởi các lẽ sauThứ nhất Về yêu cầu thực hiện hợp đồngCăn cứ vào giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 28/01/2011 do 2 bên lập, ta nhận thấy việc ông Nguyễn Ngọc M nộp một trăm triệu đồng tại công ty cổ phần tập đoàn X nên được công ty cấp giấy xác nhận đăng ký góp vốn đứng tên ông. Giấy xác nhận này không thể hiện nội dung công ty X chuyển nhượng quyền sử dụng đất lô G12-L01 cho ông M, mà chỉ có ý nghĩa sau khi lô đất G12-L01 đủ điều kiện chuyển nhượng thì ông M được quyền ưu tiên mua lô đất nêu trên. Như vậy, lô đất C12-L01 chưa thuộc quyền sử dụng của ông M, ông M đem chuyển nhượng là vi phạm cam kết với chủ đầu tư và vi phạm pháp luật. Do giao dịch ông M và bà Hương không được chủ đầu tư chấp nhận nên bà Hương không thể làm được hợp đồng để ông Hoàng được quyền ký hợp đồng với chủ đầu tư là tập đoàn X như cam kết ngày được. Nếu các bên dừng quan hệ dân sự tại thời điểm này thì quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa và Hương và ông Hoàng là giao dịch dân sự vô hiệu. Nhưng sau hơn 01 năm, vào ngày 2012 bà Hương đã viết “Giấy cam kết” có nội dung Việc chuyển nhượng giữa 2 bên không thành bà sẽ có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số tiền đã nhận cho ông Hoàng và tiền lãi suất theo ngân hàng”. Như vậy, kể từ ngày giữa bà Hương và ông Hoàng đã chuyển giao dịch từ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sang giao dịch xác nhận nợ với nhau. Theo đó, bà hương cam kết trả 7,7 tỷ đồng cũng lãi suất ngân hàng. Đây là sự thỏa thuận tự nguyện của nguyên đơn và bị đơn và không trái với quy định pháp luật hiện hành, vì vậy, yêu cầu thực hiện hợp đồng là hoàn toàn không có cơ hai Về yêu cầu đưa ông Nguyễn Ngọc M và Tập đoàn X trong vụ ánNgày giữa ông Nguyễn Ngọc M và bà Đỗ Thị Hương đã làm hợp đồng chuyển nhượng “chuyển nhượng quyền góp vốn để được mua đất và phần vốn góp có nội dung “Ông Minh chuyển nhượng cho lại quyền góp vốn vào phần vốn góp để được mua lô đất C12-L01 tại khu A khu đô thị Dương Nội do tập đoàn X là chủ đầu tư cho bà Hương”. Hợp đồng do ông M và bà Hương tự lập với nhau không có xác nhận của tập đoàn X là chủ đầu đó, ngày bà Hương làm “Giấy nhượng quyền sử dụng lô đất” đối với quyền được mua lô đất G12-L01 khu đô thị mới Dương Nội cho ông Hoàng. Giấy này viết tay do 2 người tự ký, không có chữ ký của ông M và cũng không có xác nhận của chủ đầu tư là tập đoàn X. Trong các lời khai bà Hương và ông Hoàng đều thừa nhận ông M không biết và không liên quan đến việc bà Hương lập hợp đồng chuyển nhượng lô đất đã mua của ông Minh cho ông Hoàng, ông M cũng không liên quan đến việc bà Hương nhận số tiền 7,7 tỷ những cơ sở trên có thể khẳng định rằng Không có cơ sở pháp lý để Ông Nguyễn Ngọc M và tập đoàn X phải có trách nhiệm đối với giao dịch giữa ông Hoàng và bà Hương và họ không có tư cách để tham gia vụ án Đánh giá sự tuân thủ pháp luật của tòa án Hai Bà Trưng trong quá trình giải quyết vụ nhất Vi phạm về việc kéo dài thời gian hõa phiên tòaTrong quá trình giải quyết vụ kiện nêu trên, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội vi phạm nghiêm trọng về việc kéo dài thời gian hoãn phiên tòa. Kể từ thời điểm thụ lý ngày 08/5/2014 cho đến ngày xét xử ngày 10/9/2015 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã 3 lần tạm hoãn phiên tòa thể hiện qua các quyết định Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2014/QĐST-DS ngày 24/9/2014 lần 1 Quyết định hoãn phiên tòa số 71/2014/QĐST-DS ngày 29/9/2014 lần 2, Quyết định hõa phiên toàn số 75/2014/QĐST-DS ngày 29/10/2014 lần 3Từ quyết định hõa phiên tòa số 75/2014/QĐST-DS ngày 29/10/2014 lần 3 kéo dài cho đến ngày 21/8/2015 mới quyết định mở lại phiên tòa số 08; Tiếp tục đến ngày 25/8/2015 mới có quyết định mở lại phiên tòa số 09. Thời gian hoãn phiên tòa lần 3 cho đến thời điểm mở lại phiên tòa ngày 25/8/2015 là gần 10 cứ Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011 thì thời hạn được hoãn phiên toàn không quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòaCăn cứ Điều 29, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thi hành một số quy định trong phần thứ 2 “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng Dân sự về Thời hạn hoãn phiên tòa và quyết định hoãn phiên tòa quy định tại Điều 208 của BLTTDS như sau“1. Thời hạn hoãn phiên toà sơ thẩm không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên phiên toà xét xử một vụ án bị hoãn nhiều lần, thì thời hạn của mỗi lần hoãn phiên toà không được quá giới hạn cho phép là ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà của lần đó”.Căn cứ vào các quy định nêu trên của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn cho thấy Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã kéo dài thời gian hoãn phiên toàn lên đến 10 2 Thông báo số 21A/TB-TA của Tòa án nhân Thông báo số 21A/TB-TA ngày 29/11/2014 của Tòa án về việc lùi ngày mở phiên tòa là trái nội dung thông báo “ Ngày 29/11/2014 Tòa án nhận được Đơn khiếu nại của chị Đỗ Thị Hương và anh Phạm Hồng Kỳ. Vì vậy, cần chờ kết quả giải quyết khiếu nại mới mở lại phiên tòa được. Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa sẽ được Tòa án thông báo sau”. Việc tạm hoãn xét xử trong thông báo này không có căn cứ. Không có cơ sở nào trong luật quy định phải giải quyết khiếu nại xong mới tiếp tục giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án và giải quyết khiếu nại diễn ra độc lập, không liên quan đến vậy, việc Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng cố tình trì hõa phiên tòa bằng cách kéo dài thời gian để hoãn cùng với Thông báo số 21A/TB-TA ngày 29/11/2014 của Tòa án về việc lùi ngày mở phiên tòa là trái luật, phương hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích khách các căn cứ nêu trên, Ông Lê Hoàng yêu cầu bà Đỗ Thị Hương cùng chồng là Phạm Hồng kỳ phải trả lại số tiền cho ông Hoàng là 7 tỷ đồng cộng lãi suất theo quy định của ngân hàng nhà nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho khách QUAN ĐIỂM BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO ĐƯƠNG SỰCơ sở xác định quyền khởi kiện, quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự, Quyền đòi nợ gốc, quyền đòi lãi của ông khởi kiện+ Điều 255 Bộ luật dân sự quy định về các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu như sau “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”+ Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về quyền khởi kiện vụ án “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án sau đây gọi chung là người khởi kiện tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”+ Điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về thời hiệu khởi kiện “Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện;”Quyền rút một phần yêu cầu khởi kiện Căn cứ theo Khoản b, Điều 59, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011“1. Nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ sau đâya ….b Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện;”Căn cứ Khoản 2, Điều 218 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004, sửa đổi bổ sung 2011 thì “Trong trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.Như vậy, việc ông Dư, phía nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện là hoàn toàn có căn cứ, yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận đối với 2 nội dung xin rút của nguyên đơn là Xin tuyên bố giao dịch vô hiệu và bồi thường thiệt yêu cầu đòi tiền gốc của nguyên đơnGiấy biên nhận tiền của bà Hương ngày 28/01/2011 thể hiện bà Hương đã nhận của ông Dư 7,7 tỷ đồng. Các cam kết của bà Hương, các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án cũng khẳng định số tiền bà Hương đã nhận của ông Hoàng là 7,7 tỷ đồng và bà Hương cam kết sẽ trả lại cho ông Hoàng, nhưng bà Hương đã không thực hiện cam kết của 21 và ngày 28/01/2014 bà Hương đã hai lần trả tiền cho ông Hoàng, lần đầu 530 tr và lần 2 170tr, tổng số tiền bà Hương đã trả là 700 triệu đồng. Như vậy, tổng số tiền bà Hương còn đang chiếm giữ của ông Hoàng là 7 tỷ đồng. Căn cứ Điều 256 BLDS 2005 về quyền đòi lại tài sản “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”Như vậy, ông Dư có quyền yêu cầu và bà Hương có nghĩa vụ phải trả lại cho ông Hoàng số tiền gốc 7 tỷ đòi tiền lãi của nguyên đơnSau khi nhận đủ số tiền 7,7 tỷ đồng của ông Hoàng, bà Hương đã không thực hiện được các nghĩa vụ mình cam kết là hoàn thiện thủ tục để ra được hợp đồng chuyển nhượng lô đất G12-L01 giữa ông Hoàng và tập đoàn 13/4/2012, bà Hương đã lập giấy cam kết khẳng định nếu hết ngày 31/5/2012 mà không ra được hợp đồng chuyển nhượng lô đất đứng tên ông Hoàng thì sẽ trả lại cho ông Dư toàn bộ số tiền 7,7 tỷ đồng, kèm theo lãi suất ngân hàng; thời hạn giao tiền là trong vòng 20 ngày, tức là từ ngày 01/6/2012 đến ngày 20/6/ quy định tại Điều 290 Bộ luật dân sự 2005 về Nghĩa vụ trả tiền thì “Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.Hết thời hạn cam kết trả tiền ngày 20/6/2012, bà Hương vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho ông Dư. Vì vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 305 BLDS về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì“…bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.Ông Hoàng và bà Hương cũng không có thỏa thuận nào về việc bà Hương không phải trả phần lãi chậm thanh toán này. Như vậy bà Hương có nghĩa vụ phải trả lãi chậm trả cho ông 1 Quyết định 2686/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/12/2010 quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/ đó, có căn cứ xác định bà Hương phải trả tiền lãi theo cam kết và tiền lãi chậm trả cho ông Hoàng với mức lãi suất là 9%/ chấp nhận các yêu cầu của bị đơn cụ thểThứ nhất Đưa ông M và công ty X tham gia vụ án với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Việc bà Hương yêu cầu đưa đưa ông M và Tập đoàn X vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không có căn cứ bởiTheo quy định tại khoản 3 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự, “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”Như vậy, theo quy định trên thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải là người mà việc giải quyết vụ án khiến cho họ được hưởng quyền lợi hoặc họ phải thực hiện nghĩa hai Yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng của bà Hương– Các văn bản trả lời của Tập đoàn X đều khẳng định đến thời điểm này, Lô đất G12-L01 chưa đủ điều kiện chuyển nhượng. Do đó, bà Hương không thể thực hiện được cam kết là ra được hợp đồng chuyển nhượng lô đất G12-L01 đứng tên ông Nguyễn Ngọc Minh để sang tên cho ông Hoàng.– Các bên chưa có bất cứ một thỏa thuận nào về việc ông Hoàng sẽ lấy một lô đất khác trong dự án Khu đô thị Dương Nội để thay thế cho Lô đất G12-L01.– Bà Hương đã cam kết tại Giấy biên nhận ngày 13/4/2012 Đến ngày 31/5/2012 sẽ ra được hợp đồng cho ông Hoàng. Nếu hết thời hạn trên sẽ trả lại tiền cho ông Hoàng. Trên thực tế, đến thời điểm hiện tại bà Hương vẫn chưa thực hiện được bất cứ thủ tục gì để có Hợp đồng góp vốn hoặc Hợp đồng mua bán đất với Tập đoàn X đứng tên ông M để sang tên cho ông Hoàng. Do đó, bà Hương có nghĩa vụ phải thực hiện theo đúng cam kết ngày 13/4/2012 là trả lại tiền cho ông Hoàng, cùng với tiền lãi theo lãi suất ngân hàng.– Sau bản cam kết ngày 13/4/2012, hai bên không có bất cứ một sự thỏa thuận nào khác về việc nhận đất mà chỉ có cam kết của bà Hương và được ông Hoàng chấp nhận về việc bà Hương sẽ trả lại tiền cho ông vậy, không có căn cứ để bà Hương buộc ông Hoàng phải nhận đất, căn cứ Giấy cam kết ngày 13/3/2013 và Giấy cam kết ngày 03/5/2013 thể hiện bà Hương đã không thực hiện được việc ra hợp đồng mua bán đất cho ông Hoàng và bà Hương đã có nghĩa vụ trả lại tiền cho ông Hoàng cùng với tiền lãi theo lãi suất ngân hàng. Thực tế, bà Hương cũng đã trả được 1 phần tiền là bẩy trăm triệu đồng chẵn vào tháng 1 năm thẩm quyền tòa án Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng có thẩm quyền giải quyết trong vụ án này Căn cứ vào quy định của Bộ Luật Tố tụng Dân sự tại quy định cụ thể tại Điều 35 về thẩm quyền tòa án theo lãnh thổ Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định là tòa án nơi bị đơn cư trú, làm điều 8 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP của HĐTP TANDTC hướng dẫn điều 35 Luật Tố tụng Dân sự thì Việc xác định nơi cư trú, làm việc, nơi có trụ sở quy định tại Điều 35 của BLTTDS được xác định tại thời điểm nộp đơn khởi cứ Điều 52 Bộ Luật Dân sự quy định về nơi cư trú“1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh cứ Điều 12 Luật Cư trú hiện hành quy định về nơi cư trúNơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.”Căn cứ vào các loại văn bản, giấy tờ Bị đơn cung cấp cho Nguyên đơn từ khi xác lập giao dịch cho đến ngày nguyên đơn khởi kiện đều thể hiện bị đơn thường trú tại số 18, ngách 102/1 Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, thể hiện trong– Giấy chuyển nhượng lô đất được hai bên xác lập ngày 28/01/2011;– Giấy biên nhận tiền bị đơn viết ngày 28/01/2011;– Giấy biên nhân bị đơn viết ngày 13/4/2012 cam kết không ra được hợp đồng sẽ trả lại nguyên đơn tiền và lãi suất;– Giấy cam kết do bị đơn viết ngày 13/3/2013 hứa thu xếp trả tiền;– Giấy cam kết bị đơn viết ngày 03/5/2013 về việc trả tiềnCăn cứ vào các văn bản giải quyết của các tổ chức liên quan, cụ thể– Văn bản trả lời số 471 ngày 04/3/2014 của Công an Hà Nội trả lời nguyên đơn Lê Hoàng về kết quả xác minh, tố giác tội phạm đã xác định Đỗ Thị Hương có hộ khẩu thường trú tại số …, ngách …, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.– Văn bản số 25/VPLSVD ngày 19/6/2014 của Văn phòng luật sư Y đại diện ủy quyền cho chủ đầu tư Tập đoàn X trả lời bà Hương về lô đất G12-L01 cũng thể hiện bà Hương trú tại số …, ngách…, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.– Văn bản số 206/2015/CV – NCHN ngày 27/8/2015 của Tập đoàn X gửi Tòa án quận Hai Bà Trưng vẫn khẳng định bà Hương có địa chỉ tại số .. ngách … , quận Hai Bà Trưng, Hà cứ các đơn từ của bị đơn Hương khi làm việc với Tòa án, công an thành phố đều khẳng định hộ khẩu thường trú là …, ngách…, quận Hai Bà Trưng, Hà cứ văn bản xác nhận ngày 02/12/2015 của Công an phường Thanh Nhàn quận Hai Bà Trưng khẳng định hiện nay bị đơn Đỗ Thị Hương vẫn đang đăng ký thường trú tại địa chỉ …, ngách …, quận Hai Bà Trưng, Hà vậy một lần nữa có thể khẳng định Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng có thẩm quyền giải quyết trong vụ án sự vi phạm về thời hạn tố tụng của tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng các quyết định hoãn phiên tòaVới các quyết định hõa phiên tòa số 67/2014/QĐST-DS ngày 24/9/2014 lần1 Quyết định hoãn phiên tòa số 71/2014/QĐST-DS ngày 29/9/2014 lần 2, Quyết định hõa phiên toàn số 75/2014/QĐST-DS ngày 29/10/2014 lần 3 với thời gian gần 10 tháng, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã bi phạm nghiêm trọng về thời giạn tố Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011 thì thời hạn được hoãn phiên toàn không quá 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòaCũng theo Điều 29, Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thi hành một số quy định trong phần thứ 2 “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng Dân sự về Thời hạn hoãn phiên tòa và quyết định hoãn phiên tòa quy định tại Điều 208 của BLTTDS như sau“1. Thời hạn hoãn phiên toà sơ thẩm không quá ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên phiên toà xét xử một vụ án bị hoãn nhiều lần, thì thời hạn của mỗi lần hoãn phiên toà không được quá giới hạn cho phép là ba mươi ngày, kể từ ngày Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà của lần đó”.Căn cứ vào các quy định nêu trên của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn cho thấy Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã kéo dài thời gian hoãn phiên toàn lên đến 10 tháng. Thông báo số 21A/TB-TA của Tòa án nhân Thông báo số 21A/TB-TA ngày 29/11/2014 của Tòa án về việc lùi ngày mở phiên tòa là trái nội dung thông báo “ Ngày 29/11/2014 Tòa án nhận được Đơn khiếu nại của chị Đỗ Thị Hương và anh Phạm Hồng Kỳ. Vì vậy, cần chờ kết quả giải quyết khiếu nại mới mở lại phiên tòa được. Thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa sẽ được Tòa án thông báo sau”. Việc tạm hoãn xét xử trong thông báo này không có căn cứ. Không có cơ sở nào trong luật quy định phải giải quyết khiếu nại xong mới tiếp tục giải quyết vụ án. Việc giải quyết vụ án và giải quyết khiếu nại diễn ra độc lập, không liên quan đến vậy, mặc dù thời hạn chuẩn bị xét xử không vi phạm về mặt tố tụng, tuy nhiên, việc hoãn thêm phiên tòa kéo dài thời gian gần 10 tháng cùng với việc thừa nhân Thông báo số 21A/TB-TA ngày 29/11/2014 của Tòa án về việc lùi ngày mở phiên tòa đã vi phạm nghiêm trọng về thời hạn được hõan phiên tòa, về tính độc lập khi giải quyết khiếu nại của đương sự theo đúng quy định của pháp luậtPHẦN 3KẾT QUẢ THỰC HIỆN VỤ VIỆCNỘI DUNG CÔNG VIỆC THỰC HIỆN THEO SỰ PHÂN CÔNG CỦA LUẬT SƯ HƯỚNG DẪNLuận cứ bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn tại phiên phiên tòa sơ thẩm TAND Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Luật sư Đào Thị Liên-Giám đốc điều hành công ty Luật Tiền Phong đã đưa ra luận cứ bảo vệ cho nguyên đơn ông Lê Đức Dư như sau Kính thưa Hội đồng xét xử!Tôi, Nguyễn Văn C, Công ty Luật B thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, tham gia vụ án với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Lê Hoàng -nguyên đơn trong vụ kiện dân sự “Đòi tiền” với bị đơn là bà Đỗ Thị cứ hồ sơ vụ án cũng như những thông tin, tài liệu mà hai bên cung cấp, trên cơ sở lời trình bày của hai bên tại phiên tòa hôm nay, tôi xin có ý kiên pháp lý giải quyết vụ kiện này cụ thể như sau Về quyền khởi kiện của nguyên đơnĐiều 255 Bộ luật dân sự 2005 quy định các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu như sau “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”Căn cứ hồ sơ vụ kiện cho thấyNgày 28/01/2011, bà Hương đã viết Giấy nhượng quyền sử dụng đất lô đất G12-L01 Khu A Dương Nội cho ông Hoàng và nhận của ông Dư 7,7 tỷ đồng có Giấy biên nhận tiền. Sau đó, bà Hương không thực hiện được nghĩa vụ đã cam kết là hoàn thiện các thủ tục để ông Dư được ký hợp đồng với chủ đầu tư là Tập đoàn X.+ Ngày 13/4/2012, bà Hương ghi giấy biên nhận, cam kết nếu hết ngày 31/5/2012, bà Hương không ra được hợp đồng đứng tên ông Hoàng, trong vòng 20 ngày từ ngày 31/5/2012 bà Hương sẽ trả lại toàn bộ số tiền 7,7 tỷ đồng kèm theo lãi suất ngân đó bà Hương cũng không thực hiện được cam kết này.+ Ngày 13/3/2013, bà Hương tự nguyện giao cho ông Hoàng một số giấy tờ tài sản của bà Hương, cam kết nếu đến hết tháng 10/2013 mà không “giải quyết xong” về lô đất G12-L01 thì những tài sản trên sẽ thuộc quyền sở hữu của ông Hoàng;Hết hạn này bà Hương cũng không thực hiện các cam kết của mình.+ Ngày 03/5/2013, bà Hương tiếp tục viết Giấy cam kết lần thứ 3 xin hẹn đến cuối tháng 9/2013 sẽ trả lại cho ông Dư 7,7 tỷ đồng nhưng sau đó cũng không thực cứ điều 255 BLDS 2005, căn cứ các giấy tờ bà Hương xác lập có thể khẳng định Bà Hương có nghĩa vụ trả ông Hoàng số tiền 7,7 tỷ đồng và lãi suất, vì bà Hương không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nên ông Hoàng có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết để buộc bà Hương phải thực hiện những nghĩa vụ trả tiền này. Về thời hiệu khởi kiện– Đối với khoản tiền gốc Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện.– Đối với yêu cầu đòi tiền lãi trên tổng số tiền bà Hương đã chiếm giữ của ông Hoàng căn cứ thời điểm bà Hương lập Giấy biên nhận là ngày 13/4/2012 có nội dung hẹn đến hết ngày 31/5/2011, nếu bà Hương không ra được hợp đồng đứng tên ông Hoàng, bà Hương sẽ trả tiền gốc kèm theo lãi suất ngân hàng. Nhưng sau đó bà Hương không thực hiện được nên thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền lãi là từ ngày 01/6/ vậy, thời hiệu khởi kiện đòi tiền lãi của ông Hoàng được tính từ ngày phát sinh nghĩa vụ là ngày 01/6/2012; thời điểm ông Hoàng khởi kiện bà Hương ra TAND quận Hai Bà Trưng là tháng 3/2014, thời điểm tòa án thụ lý là ngày 08/5/2014, vẫn trong thời hạn 2 năm theo quy định về thời hiệu tại Điều 159 vậy, có căn cứ khẳng định các yêu cầu đòi tiền cả gốc và lãi của ông Hoàng là không vi phạm pháp luật về thời hiệu khởi kiện. Về thẩm quyền tòa ánCăn cứ vào quy định của Bộ Luật Tố tụng Dân sự tại Điều 35 về thẩm quyền tòa án theo lãnh thổ Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định là tòa án nơi bị đơn cư trú, làm điều 8 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP của HĐTP TANDTC hướng dẫn điều 35 Luật Tố tụng Dân sự thì Việc xác định nơi cư trú, làm việc, nơi có trụ sở quy định tại Điều 35 của BLTTDS được xác định tại thời điểm nộp đơn khởi cứ Điều 52 Bộ Luật Dân sự quy định về nơi cư trú“1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh cứ Điều 12 Luật Cư trú hiện hành quy định về nơi cư trúNơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.”Căn cứ vào các loại văn bản, giấy tờ Bị đơn cung cấp cho Nguyên đơn từ khi xác lập giao dịch cho đến ngày nguyên đơn khởi kiện đều thể hiện bị đơn thường trú tại .., ngách…, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, thể hiện trong– Giấy chuyển nhượng lô đất được hai bên xác lập ngày 28/01/2011;– Giấy biên nhận tiền bị đơn viết ngày 28/01/2011;– Giấy biên nhân bị đơn viết ngày 13/4/2012 cam kết không ra được hợp đồng sẽ trả lại nguyên đơn tiền và lãi suất;– Giấy cam kết do bị đơn viết ngày 13/3/2013 hứa thu xếp trả tiền;– Giấy cam kết bị đơn viết ngày 03/5/2013 về việc trả tiềnCăn cứ vào các văn bản giải quyết của các tổ chức liên quan, cụ thể– Văn bản trả lời số 471 ngày 04/3/2014 của Công an Hà Nội trả lời nguyên đơn Lê Đức Dư về kết quả xác minh, tố giác tội phạm đã xác định Đỗ Thị Hương có hộ khẩu thường trú tại .., ngách …, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.– Văn bản số 25/VPLSVD ngày 19/6/2014 của Văn phòng luật sư Vì Dân đại diện ủy quyền cho chủ đầu tư Tập đoàn Nam Cường trả lời bà Hương về lô đất G12-L01 cũng thể hiện bà Hương trú tại số 18, ngách 102/1 Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.– Văn bản số 206/2015/CV – NCHN ngày 27/8/2015 của Tập đoàn X gửi Tòa án quận Hai Bà Trưng vẫn khẳng định bà Hương có địa chỉ tại .., ngách …, quận Hai Bà Trưng, Hà cứ các đơn từ của bị đơn Hương khi làm việc với Tòa án, công an thành phố đều khẳng định hộ khẩu thường trú là .., ngách …, quận Hai Bà Trưng, Hà cứ văn bản xác nhận ngày 02/12/2015 của Công an phường Thanh Nhàn quận Hai Bà Trưng khẳng định hiện nay bị đơn Đỗ Thị Hương vẫn đang đăng ký thường trú tại địa chỉ …, ngách…, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Về quyền rút một phần yêu cầu của Nguyên đơnTại đơn khởi kiện đề ngày 1/3/2014, ông Hoàng đã yêu cầu tòa án 4 nội dungTuyên giao dịch vô hiệuYêu cầu bà Hương trả lại tiền 7 tỷ và lãi suất theo quy định của ngân hàng nhà nướcBồi thường thiệt hạiÁp dụng biện pháp khẩn cấp tạm phiên tòa ngày hôm nay, Nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu, cụ thểRút yêu cầu tòa án Tuyên giao dịch vô hiệuRút yêu cầu Bồi thường thiệt cầu còn lại là– yêu cầu tòa án tuyên bà Hương phải trả lại tài sản là tiền 7 tỷ đồng đã chiếm giữ từ ngày 28/1/2011 và lãi suất theo cam kết của bà Hương.– Điều 59 LTTDS quy định nguyên đơn có quyền rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Tại phiên tòa hôm nay, Chủ tọa phiên tòa cũng đã giải thích quyền này một cách công khai– Điều 218 BLTTDS quy định “trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.Như vậy, ông Dư được pháp luật bảo hộ quyền chủ động trong việc rút bớt yêu cầu khởi kiện cho phù hợp. Luật Tố tụng Dân sự đã quy định, tôi đề nghị HĐXX chấp nhận đình chỉ những nội dung yêu cầu bị Nguyên đơn rút theo đúng quy định. Về nghĩa vụ trả tiền nợ gốc của bị đơnGiấy biên nhận tiền của bà Hương ngày 28/01/2011 thể hiện bà Hương đã nhận của ông Dư 7,7 tỷ đồng. Các cam kết của bà Hương, các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án cũng khẳng định số tiền bà Hương đã nhận của ông Dư là 7,7 tỷ đồng và bà Hương cam kết sẽ trả lại cho ông Hoàng, nhưng bà Hương đã không thực hiện cam kết của 21 và ngày 28/01/2014 bà Hương đã hai lần trả tiền cho ông Dư, lần đầu 530 tr và lần 2 là 170tr, tổng số tiền bà Hương đã trả là 700 triệu đồng. Như vậy, tổng số tiền bà Hương còn đang chiếm giữ của ông Hoàng là 7 tỷ đồng. Căn cứ Điều 256 BLDS 2005 về quyền đòi lại tài sản “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”Như vậy, ông Dư có quyền yêu cầu và bà Hương có nghĩa vụ phải trả lại cho ông Hoàng số tiền gốc 7 tỷ đồng. Về nghĩa vụ trả tiền lãi của Bị đơnSau khi nhận đủ số tiền 7,7 tỷ đồng của ông Hoàng, bà Hương đã không thực hiện được các nghĩa vụ mình cam kết là hoàn thiện thủ tục để ra được hợp đồng chuyển nhượng lô đất G12-L01 giữa ôngHoàng và tập đoàn 13/4/2012, bà Hương đã lập giấy cam kết khẳng định nếu hết ngày 31/5/2012 mà không ra được hợp đồng chuyển nhượng lô đất đứng tên ông Hoàng thì sẽ trả lại cho ông Dư toàn bộ số tiền 7,7 tỷ đồng, kèm theo lãi suất ngân hàng; thời hạn giao tiền là trong vòng 20 ngày, tức là từ ngày 01/6/2012 đến ngày 20/6/ vậy, nghĩa vụ trả tiền của bà Hương đã phát sinh từ ngày 01/6/ quy định tại Điều 290 Bộ luật dân sự 2005 về Nghĩa vụ trả tiền thì “Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.Giữa ông Hoàng và bà Hương không có thỏa thuận nào về việc bà Hương không phải trả lãi; bản thân bà Hương cũng đã cam kết sẽ trả cả tiền nợ gốc là 7,7 tỷ đồng và tiền lãi cho ông Dư. Như vậy, nghĩa vụ trả tiền lãi cho ông Hoàng theo cam kết của bà Hương phát sinh cùng thời điểm với nghĩa vụ trả tiền là ngày 01/6/ tại Giấy biên nhận ngày 13/4/2012 bà Hương không cam kết mức lãi suất cụ thể mà bà Hương phải trả cho ông Dư mà chỉ nêu chung chung là “kèm theo lãi suất ngân hàng” nên cần xác định lãi suất bà Hương phải trả dựa trên mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công thời hạn cam kết trả tiền ngày 20/6/2012, bà Hương vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho ông Hoàng. Vì vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 305 BLDS về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì“…bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Ông Hoàng và bà Hương cũng không có thỏa thuận nào về việc bà Hương không phải trả phần lãi chậm thanh toán này. Như vậy bà Hương có nghĩa vụ phải trả lãi chậm trả cho ông 1 Quyết định 2686/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/12/2010 quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9%/ đó, có căn cứ xác định bà Hương phải trả tiền lãi theo cam kết và tiền lãi chậm trả cho ông Hoàng với mức lãi suất là 9%/ hồ sơ vụ án cho thấy– Nghĩa vụ trả lãi theo cam kết của bà Hương phát sinh từ ngày 01/6/2012 theo Giấy biên nhận ngày 13/4/2012, thời hạn trả là ngày 20/6/2012. Tuy nhiên, sau đó bà Hương đã có Giấy cam kết ngày 13/3/2013 và Giấy cam kết ngày 03/5/2013, cam kết thời hạn trả tiền cho ông Hoàng là cuối tháng 9/2013, ông Hoàng cũng không phản đối. Như vậy, có căn cứ để xác định rằng các bên đã thống nhất lại với nhau về thời hạn trả tiền là cuối tháng 9/2013; bà Hương phải trả lãi theo cam kết cho ông Hoàng từ ngày 01/6/2012 đến ngày 30/9/ thời hạn đã cam kết bà Hương vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả tiền, do đó bà Hương phải trả lãi chậm trả cho ông Hoàng từ ngày 01/10/ 27/01/2014 bà Hương trả cho ông Hoàng được 700 triệu đồng tiền nợ vậy, số tiền lãi theo cam kết và lãi chậm thanh toán tính trên số tiền 7,7 tỷ đồng được tính từ ngày 21/06/2012 đến ngày 21/01/2014 là 19 tháng số tiền gốc là 7,7 tỷ đồng;Số lãi chậm thanh toán sẽ là19 tháng x 7,7 tỷ x 0,75%/tháng = đồngTừ ngày 22/01/2014 đến ngày 27/01/2014 là 5 ngày, tiền gốc là tỷ đồng; đồng x 0,025%/ngày x 5 ngày = 500 đồngTừ ngày 29/01/2014 đến ngày 10/9/2015 là 19 tháng 11 ngày, tiền gốc là tỷ đồng. đồng x x 19 tháng + đồng + 0,025%/ngày x 11 ngày = đồngTổng lãi phải trả sẽ là đồngVề việc bị đơn bà Đỗ Thị Hương yêu cầu đưa ông Nguyễn Ngọc M và Tập đoàn X vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quanKhông thể đưa ông M và Tập đoàn X vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bởi những lẽ sauTheo quy định tại khoản 3 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự, “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”Như vậy, theo quy định trên thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải là người mà việc giải quyết vụ án khiến cho họ được hưởng quyền lợi hoặc họ phải thực hiện nghĩa trở lại vụ án, việc bà Hương trả lại tiền cho ông Hoàng không làm phát sinh bất cứ quyền hay nghĩa vụ nào của ông Minh cũng như Tập đoàn Nam Cường. Vì vậy, yêu cầu của bị đơn đưa ông Nguyễn Ngọc M và Tập đoàn X vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không có căn vào đó, tranh chấp giữa ông Hoàng và bà Hương là tranh chấp “kiện đòi tài sản”, hoàn toàn không liên quan tới ông M người có quyền ưu tiên mua lô đất hay Tập đoàn X Chủ đầu tư, cụ thể+ Ông M không có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì bà Hương là người nhận tiền của ông Hoàng, cũng là người đã thừa nhận nghĩa vụ trả tiền cho ông Hoàng; khi ông Hoàng giao tiền cho bà Hương ông M không hề có mặt ở đó, cũng không nhận tiền từ ông Hoàng. Hơn nữa, theo nội dung Giấy biên nhận tiền của ông M thì ông M đã nhận tiền của bà Hương từ ngày 13/01/2011; trong khi đến ngày 28/01/2011 ông Hoàng mới giao tiền cho bà Hương; vậy phía bị đơn căn cứ vào đâu để khẳng định rằng bà Hương đã đưa số tiền 7 tỷ đồng của ông Hoàng cho ông M?!+ Tập đoàn X cũng không liên quan đến vụ án vì như đã phân tích ở trên, đây đơn thuần là tranh chấp “đòi tiền” giữa ông Hoàng và bà Hương. Tập đoàn X không nhận tiền của ông Hoàng hay bà Hương, việc bà Hương trả lại tiền cho ông Hoàng theo như nội dung bà Hương đã cam kết không liên quan gì đến quyền và nghĩa vụ của Tập đoàn nghịTừ lập luận trên, căn cứ các quy định của pháp luật có liên quan, căn cứ hồ sơ vụ án, kính đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Nguyên đơn Lê Hoàng, buộc bà Đỗ Thị Hương phải trả lại ông Hoàng số tiền gốc 7 tỷ đồng và số tiền lãi tính đến thời điểm xét xử là 2. 123. 037. 500 đồng. Tổng số tiền cả gốc và lãi bà Hương phải trả cho ông Hoàng tính đến thời điểm xét xử là đồng. Chín tỷ một trăm hai ba triệu không trăm ba bẩy nghìn năm trăm đồng Ngoài ra, kính đề nghị Tòa án tuyên buộc bà Đỗ Thị Hương còn phải trả lãi cho ông Hoàng trong thời gian thi hành án theo lãi suất quy định của Ngân hàng Nhà tin tưởng vào sự công bằng, khách quan, tuân thủ pháp luật của HĐXX để ra một bản án đúng pháp luật, phù hợp với sự thật khách quan của vụ trọng cảm ơn quý vị đã chú ý lắng QUẢ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN ĐÒI TIỀNNgày tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 21/2014/TLST-DS ngày về việc đòi tiền theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2014/QĐXXST ngày và quyết định hoãn phiên tòa số 67/2014/QĐ-ST-DS ngày QĐ hoãn phiên toà số 71/2014/QĐST-DS ngày quyết định hoãn phiên toà ngày thông báo mở lại phiên toàn số 08/ Quyết định hoãn phiên tòa số 75/ Thông báo mở lại phiên tòa số 08/ Thông báo mở lại phiên tòa 09/ án sơ thẩm số 08/2015/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2015 về việc “Đòi tiền” cuả Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã tuyên như sauTrích bản ánQUYẾT ĐỊNHCăn cứ Điều 25, Điều 35, Điều 127, Điều 128, Điều 131, Điều 134, Điều 179, Điều 195, Điều 236, Điều 238, Điều 239, Điều 243, Điều 245 Bộ luật tố tụng Dân cứ Điều 4, Điều 280, Điều 281, Điều 282, Điều 283, Điều 285, Điều 286, Điều 302, Điều 305, Điều 424, Điều 59, Điều 416 Bộ luật Dân cứ quyết định 2868-QĐNHNN quy định về mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hiệu lực thi hành ngày 01/10/ nhận đơn khởi kiện ngày 11/3/2014 và yêu cầu thay đổi khởi kiện tại phiên tòa ngày 10/9/2015 của ông Lê Đức Dư về việc đòi tiền giữa ông và bà Đỗ Thị bà Đỗ Thị Hương và ông Phạm Hồng Kỳ phải trả cho ông Lê Hoàng và vợ là bà Nguyễn Kim Thúy số tiền gốc là bẩy tỷ đồng và tiền lãi là đồng. Tổng số tiền mà bà Đỗ Thị Hương và ông Phạm Hồng Kỳ phải trả cho ông Lê Hoàng và bà Nguyễn Thị Kim Thúy là Lê Hoàng có trách nhiệm trả lại cho bà Hương, ông Kỳ toàn bộ giấy tờ nhà đất đã nhận khi bà Hương, ông kỳ thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền cho ông Hoàng, và Thúy gồm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Thạch Thất cấp ngày 28/5/2010 đứng tên Đỗ Thị Hương, số AH 809672, tại thôn Yên Mỹ-Xã Bình Yên- huyện Thạch Thất- Hà Nội; Hợp đồng góp vốn mua căn hộ E28 B56 khu đô thị mới Mỗ Lao- Hà Đông- Hà Nội giữa bà Đỗ Thị Hương và công ty TNHH Capitaland Hoàng Thành; Phiếu thu tiền mua lô đất Q1- C20 thuộc dự án thung lũng Thanh Xuân- Khu Đại Nải- Vĩnh Phúc đứng tên bà Hương và ông chấp nhận áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 11/3/2014 của ông Lê các yêu cầu khác của đương từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án chịu lãi suất đối với số tiền chậm trả lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân án phí Bà Đỗ Thị Hương phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là Lê Hoàng phải chịu án phí đối với yêu cầu không được chấp nhận là đồng, được trừ vào số tiền đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 3683 ngày 03/4/2014 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, ông Hoàng được nhận lại số tiền là xử sơ thẩm công khai, có mặt ông Hoàng, bà Thúy và người đại diện hợp pháp của bà Hương, ông Kỳ, các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên 4BÀI HỌC KINH NGHIỆM, KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤTBÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO BẢN THÂNQua vụ án tôi thu nhận được rất nhiều kinh nghiệm trong việc làm việc với cơ quan có thẩm quyền liên quan tới vụ án Dân sư. Có cách nhìn tổng thể, đánh giá các văn bản, tài liệu, chứng cứ một cách khách quan hơn, có lòng tin hơn vào quan điểm cá nhân sau khi đã nghiên cứu kỹ quy định pháp luật và tiếp xúc gặp gỡ nguyên đơn trong quá trình làm làm lắng nghe mong mỏi của khách hàng, giải thích một cách thấu đáo hợp tình, hợp lý cho khách hàng để họ yên tâm hơn và có niềm tin vào cách xử lý công việc của luật sư; Giúp luật sư chuẩn bị tốt các tài liệu cơ bản cần có trong vụ án, sắp xếp hợp lý khi tham gia các buổi làm việc với các cơ quan có thẩm quyền và đặc biệt tại Tòa được tham dự phiên tòa trực tiếp góp phần để tôi học hỏi kinh nghiệm tranh tụng tại tòa; những biện pháp cần áp dụng trong trường hợp tòa án vi phạm tố tụng; học hỏi những kỹ năng cần thiết trong các thủ tục hỏi, tranh luận trong phiên tòa; giúp tôi nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của luật NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤTĐề nghị cho người tập sự hành nghề luật sư được tham gia nhiều hơn trong hoạt động nghề nghiệp. Căn cứ theo khoản 3 Điều 14 Luật luật sư có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 được sửa đổi bổ sung năm 2012 thì người tập sự hành nghề luật sư chỉ được thực hiện theo quy định là “ Người tập sự hành nghề luật sư được giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp nhưng không được đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng tại phiên tòa, không được ký văn bản tư vấn pháp luật.”, như vậy người tập sự hành nghề luật sư chỉ được tập sự và học tập trên các tài liệu do luật sư hướng dẫn cung cấp, ngoài ra không được tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp khác rất cần thiết cho quá trình thực tập hành nghề luật sư như gặp bị can, bị cáo, tiếp xúc với đương sự, tham gia tố tụng tại tòa, thực hiện tư vấn pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng… So sánh với Pháp lệnh luật sư năm 2001 và Nghị định số 94/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh luật sư. Tại khoản 2 Điều 5 Chương II của Nghị định số 94/2001/NĐ-CP quy định “Luật sư tập sự được tham gia tố tụng trong các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực theo sự phân công của luật sư hướng dẫn và khi được khách hàng đồng ý. Khi tham gia tố tụng, luật sư tập sự có các quyền và nghĩa vụ của luật sư theo quy định của pháp luật tố tụng và Pháp lệnh luật sự. Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, luật sư tập sự được cùng với luật sư hướng dẫn nghiên cứu hồ sơ, gặp bị can, bị cáo và đương sự khác khi được họ đồng ý. Luật sư tập sự được thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác cho khách hàng theo sự phân công của luật sư hướng dẫn khi được khách hàng đồng ý, nhưng không được ký văn bản tư vấn pháp luật và chịu trách nhiệm về chất lượng công việc mà minh thực hiện trước luật sư hướng dẫn và tổ chức hành nghề luật sư nơi mình tập sự”. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư và Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh luật sư, thì luật sư tập sự được tham gia hầu hết các hoạt động nghề nghiệp gần như luật sư chính thức, điều này giúp cho người tập sự được thâm nhập vào thực tế, có nhiều cơ hội để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn của nghề nghiệp, tạo điều kiện cho người tập sự nắm vững chuyên môn hơn, nâng cao trình độ nghiệp vụ và trích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp của mình. Như vậy, so sánh với Pháp lệnh luật sư 2001 đã hết hiệu lực kể từ ngày Luật luật sư có hiệu lực thi thành thì Luật luật sư đã hạn chế rất nhiều quyền tham gia các hoạt động nghề nghiệp của người tập sự hành nghề luật sư, điều này gây nhiều khó khăn cho người tập sự nghề luật sư trong việc gắn kết giữa lý thuyết được đào tạo và thực tiễn công việc, trong việc hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng tay xin trân trọng cảm ơn Hội đồng Giám 5DANH MỤC TÀI LIỆU ĐÍNH KÈMĐơn khởi kiện Các giấy tờ giao dịch giữa nguyên đơn và bị đơn Văn bản trả lời của Nam CườngVăn bản trả lời của Công an Hà Nội Bản án sơ thẩm số 08/2015/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2015 về việc “Đòi tiền” của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Như vậy, để đòi lại tài sản mà bạn bị chiếm đoạt nếu đủ chứng cứ cấu thành hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài tài sản của người kia bạn có thể.... Khởi kiện đòi lại tài sản Câu hỏi của bạn về khởi kiện đòi lại tài sản Thưa Luật sư, tôi có nhờ 1 người làm giúp tôi thủ tục chia tách sổ đỏ, ngày 2/6/2018 ông ta đã nhận của tôi 20tr là số tiền để đóng thuế và làm thủ tục, nhưng hơn 1 năm nay ông ta nhiều lần trì hoãn không thực hiện được việc làm thủ tục. Đến 1 tháng trước tôi đã buộc ông ta trao lại sổ đỏ cho tôi kèm tiền, ông ta hứa sẽ trả nhưng hiện tại tôi chỉ nhận được sổ đỏ, tiền thì ông ta hứa rất nhiều lần nhưng vẫn không trả, mọi cuộc gọi của tôi và ông ta tôi đều ghi âm lại, và ông ta vẫn thừa nhận chưa trả lại tiền cho tôi, tôi có thể viết đơn để đòi lại số tiền của tôi không?. Cảm ơn luật Toàn Quốc và mong câu trả lời! Câu trả lời của Luật sư về khởi kiện đòi lại tài sản Chào bạn, luật Toàn Quốc cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về khởi kiện đòi lại tài sản, chúng tôi xin đưa ra ý kiến tư vấn về khởi kiện đòi lại tài sản như sau 1. Cơ sở pháp lý về khởi kiện đòi lại tài sản BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Luật Toàn Quốc 2. Nội dung tư vấn về khởi kiện đòi lại tài sản Thủ tục tách sổ đỏ là một thủ tục hành chính của người có yêu cầu tách sổ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do liên quan đến quyền sử dụng đất nên người yêu cầu phải tự mình làm thủ tục hoặc ủy quyền nhờ người khác làm thay bằng văn bản ủy quyền. Trong trường hợp của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau Kiện đòi lại tài sản Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản Căn cứ theo Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 có quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau “Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ đồng đến dưới đồng hoặc dưới đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm …… d Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. “ Như vậy, hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm làm cho người khác tự nguyện đưa tài sản cho mình sẽ cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trường hợp bạn thiết lập giao dịch dân sự với người khác, nếu có căn cứ chứng minh rằng người thiết lập giao dịch dân sự với bạn lừa dối khiến bạn tin tưởng và đồng ý tham gia giao dịch dân sự nhưng ngay từ đầu đã có ý định chiếm đoạt khoản tiền này thì cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trường hợp ban đầu các bên tham gia giao dịch dân sự này thiện chí, sau đó người kia mới phát sinh ý định muốn chiếm đoạt tài sản thì hành vi của người này có thể cấu thành một tội danh khác là Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017. Khởi kiện đòi lại tài sản Trong trường hợp trên, để có thể đòi lại tài sản là 20 triệu đồng bạn có thể thực hiện theo những cách sau Thứ nhất, nộp đơn khởi kiện đòi lại tài sản theo thủ tục tố tụng dân sự Theo quy định của Bộ luật dân sự thì giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Do đó, trong trường hợp bạn thỏa thuận với người kia về việc làm giúp thủ tục tách sổ đỏ và đưa 20 triệu cho người kia để làm các thủ tục có liên quan có thể coi là xác lập giao dịch dân sự. Vì vậy, bạn có thể kiện đòi lại tài sản theo thủ tụng tố tụng dân sự. Cụ thể Bạn có thể tiến hành làm đơn khởi kiện đòi lại tài sản gửi đến Tòa án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 “1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây a Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này” Như vậy, thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong trường hợp của bạn là tòa án nhân dân cấp huyện. Căn cứ theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, bạn có thể gửi đơn đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của bị đơn hoặc nơi bị đơn làm việc để kiện đòi lại tài sản của mình Thứ hai, nộp đơn tố giác tội phạm theo thủ tục tố tụng hình sự Căn cứ theo Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì bạn có thể gửi đơn tố giác tội phạm tới cơ quan công an để được giải quyết, nếu nhận thấy hành vi cấu thành tội phạm, cơ quan điều tra sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, trường hợp vụ án được đưa ra xét xử. Bên cạnh đơn khởi kiện, bạn cần phải thu thập và nộp cho Tòa những chứng cứ để xác định việc bạn đã giao dịch với người kia, và người kia đang giữ 20 triệu đồng của bạn, để Tòa án dựa vào đó làm cơ sở để giải quyết và có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bạn. Như vậy, để khởi kiện đòi lại tài sản mà bạn bị chiếm đoạt nếu đủ chứng cứ cấu thành hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài tài sản của người kia bạn có thể gửi đơn tố giác tội phạm tới cơ quan công an để được giải quyết hoặc bạn có thể gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của bị đơn hoặc nơi bị đơn làm việc để kiện đòi lại tài sản của mình. Ngoài ra, bạn cần cung cấp các chứng cứ xác thực giao dịch giữa hai người và việc ghi âm cuộc nói chuyện của bạn phải được bên kia biết và đồng ý về cuộc ghi âm này thì bản ghi âm này mới có thể làm bằng chứng chứng minh trước tòa. Bài viết tham khảo Thủ tục kiện đòi tài sản là xe máy khi cho mượn; Tư vấn khởi kiện đòi lại tiền lương theo quy định của pháp luật. Để được tư vấn chi tiết về Khởi kiện đòi lại tài sản, quý khách vui lòng liên hệ tới tổng đài tư vấn dân sự 24/7 19006500 để được tư vấn chi tiết hoặc gửi câu hỏi về Email lienhe Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất. Luật Toàn Quốc xin chân thành cảm ơn./. Chuyên viên Huyền Trang
Bộ luật Dân sự hiện hành đã dành hẳn một chương quy định về quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và kèm theo những quy định để bảo vệ những quyền ấy. Một trong các phương thức để bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là quyền kiện đòi tài sản. Trên thực tế, việc kiện đòi tài sản cũng diễn ra khá nhiều bởi hiện nay có nhiều quan hệ dân sự phát sinh làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự trong việc bảo vệ tài sản của mình. Chính vì thế, Luật Vạn Phúc xin gửi đến quý khách hàng bài viết về Kiện đòi tài sản theo quy định của BLDS một cách khái quát nhất để quý khách có thể nắm rõ quy trình kiện đòi tài sản này. Cơ sở pháp lý Điều 166 Bộ luật dân sự BLDS 2015. Kiện đòi tài sản là gì? Theo quy định của pháp luật, không ai có thể bị hạn chế hay tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản. Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản một cách hợp pháp của chủ thể có liên quan. Và một trong những quyền ấy đó chính là quyền được kiện đòi lại tài sản. Như vậy, kiện đòi lại tài sản là một phương thức để bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp. Là việc chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Quy định đòi lại tài sản Điều kiện để đòi lại tài sản Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà việc đòi lại tài sản cần phải có những điều kiện khác nhau. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết bắt buộc có ở mọi trường hợp là đối tượng khởi kiện đòi lại tài sản phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Các trường hợp khác đó là Đối với trường hợp “Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình” thì điều kiện để đòi lại tài sản như sau + Tài sản có được này phải thông qua hợp đồng không có đền bù hoặc hợp đồng có đền bù trong trường hợp động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu + Chủ thể là người đang thực tế chiếm hữu/sử dụng tài sản đó không có căn cứ do pháp luật quy định. + Chủ sở hữu phải chứng minh được tài sản chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đó là tài sản của chính mình. Đối với trường hợp “Bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng chiếm hữu ngay tình tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, thông qua hợp đồng có đề bù và theo ý chí của người chiếm hữu có căn cứ pháp luật như cho mượn, cho thuê…” chủ sở hữu trong trường hợp này sẽ không được kiện đòi lại tài sản của người đang thực tế chiếm hữu tài sản đó mà sẽ kiện người mình đã chuyển giao tài sản kia. Đối với trường hợp “Bị đơn là người chiếm hữu không có căn pháp luật nhưng ngay tình đối với bất động sản và tài sản phải đăng ký quyền sở hữu” chủ sở hữu có quyền yêu cầu đòi lại tài sản. Hồ sơ để đòi lại tài sản Để khởi kiện đòi lại tài sản, quý khách hàng cần chuẩn bị những hồ sơ, giấy tờ sau + Các giấy tờ chứng minh nhân thân của mình, của người có liên quan như giấy chứng minh nhân dân, hộ khẩu…. + Các tài liệu chứng cứ chứng minh việc khởi kiện đòi lại tài sản là có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật. + Các tài liều, chứng cứ chứng minh lỗi hay dấu hiệu vi phạm của những chủ thể có liên quan. + Biên lai đã nộp lệ phí/ tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. + Các tài liệu khác có liên quan. Đối tượng của kiện đòi lại tài sản Theo quy định của pháp luật thì chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Vậy, đối tượng của kiện đòi lại tài sản chính là tài sản. Theo quy định tại Điều 105 BLDS, tài sản sẽ gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tuy nhiên, do đặc thù của quyền kiện đòi lại tài sản, nên không phải những loại tài sản nào được liệt kê tại Điều 105 trên cũng là đối tượng của kiện đòi tài sản. Mà đó phải là những vật có thực và đang tồn tại trên thực tế. Quyền tài sản là loại tài sản vô hình nên không thể xem là đối tượng của quyền kiện đòi tài sản được. Như vậy, đối tượng của kiện đòi lại tài sản sẽ là vật, tiền, giấy tờ có giá. Phương thức kiện đòi lại tài sản Kiện đòi tài sản được pháp luật quy định khá rõ ràng và đầy đủ về phương thức bao gồm chủ thể có quyền, đối tượng khởi kiện, quan hệ hợp đồng giữa nguyên đơn và bị đơn…. Phương thức kiện đòi lại tài sản này cũng như các phương thức kiện đòi dân sư khác, nó đều tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp để họ có thể chủ động bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chính mình một cách nhanh chóng và thuận tiện Các trường hợp áp dụng kiện đòi lại tài sản Những trường hợp được áp dụng kiện đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật là + Trường hợp đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình + Bị đơn là người chiếm hữu không có căn pháp luật nhưng ngay tình đối với bất động sản và tài sản phải đăng ký quyền sở hữu Các trường hợp không được kiện đòi lại tài sản Tuy pháp luật quy định chủ thể có liên quan có thể khởi kiện đòi lại tài sản nhưng không phải lúc nào họ cũng có quyền này, trong một số trường hợp nhất định thì họ sẽ không được kiện đòi lại tài sản. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó. Đơn cử như trường hợp Bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng chiếm hữu ngay tình tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, thông qua hợp đồng có đề bù và theo ý chí của người chiếm hữu có căn cứ pháp luật như cho mượn, cho thuê… Quy trình kiện đòi tài sản Chuẩn bị hồ sơ hợp lệ Khi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc kiện đòi tài sản theo quy định của pháp luật thì chủ thể khởi kiện cần phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ như ở phần trên đã liệt kê. Và quý khách hàng cần chuẩn bị đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật để tránh mất thời gian, công sức đi lại cũng như là cơ quan có thẩm quyền sẽ xử lý nhanh hơn. Nộp hồ sơ tại cơ quan có thẩm quyền Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện và những hồ sơ có liên quan đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật. Có thể nộp bằng các hình thức sau + Trực tiếp tại Tòa án; + Gửi qua dịch vụ bưu chính; + Hoặc gửi bằng hình thức trực tuyến qua cổng thông tin điện tử của Tòa án nếu có Kiểm tra, giải quyết và trả kết quả + Sau khi nhận được hồ sơ hợp lệ, Tòa án sẽ xem xét, kiểm tra nội dung đơn khởi kiện và nếu xét thấy đúng thẩm quyền của mình thì Tòa án sẽ thông báo cho đương sự biết để đương sự nộp tiền tạm ứng án phí. + Trong thời hạn 15 ngày khi nhận được thông báo, đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí rồi nộp lại biên lai cho Tòa án, Tòa án sẽ thụ lý giải quyết. + Sau đó, Tòa án sẽ tiến hành thủ tục chuẩn bị xét xử để đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, nếu có đơn kháng cáo, kháng nghị thì sẽ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Và còn có thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng. Thời hiệu kiện đòi lại tài sản Theo quy định của pháp luật dân sự hiện nay không có quy định cụ thể nào về thời hiệu khởi kiện đòi lại tài sản. Tuy nhiên, trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có đề cập đến thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, trong đó tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Vậy, có thể hiểu thời kiện khởi kiện đòi lại tài sản là vĩnh viễn, trừ trường hợp việc chiếm hữu tài sản đó đã được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản theo thời hiệu. Pháp luật quy định như vậy là để bảo vệ quyền lợi của công dân một cách tối ưu nhất. Lệ phí kiện đòi tài sản Khi nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp kiện đòi lại tài sản thì đương sự phải nộp án phí, lệ phí. Mức án phí, lệ phí được xác định theo quy định của pháp luật tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể mà mức án phí sẽ khác nhau được xác định theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Một số câu hỏi thường gặp về kiện đòi tài sản Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ? Trả lời Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với những quy định sau đây sẽ được xem là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật + Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; + Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; + Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; + Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; + Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; + Trường hợp khác do pháp luật quy định. Vật nào được xem là đối tượng của kiện đòi tài sản ? Trả lời không phải vật nào cũng được xem là đối tượng của kiện đòi tài sản, mà đó phải là những vật có thực và đang tồn tại trên thực tế. Nếu vật đó hiện không còn tồn tại hay bị mất thì có được khởi kiện đòi lại tài sản không ? Trả lời Nếu vật hiện không còn tồn tại do đã bị mất mà không xác định được ai là người đang thực tế chiếm hữu hoặc bị tiêu hủy thì cũng không thể áp dụng biện pháp kiện đòi lại tài sản được. Trường hợp này thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp chỉ có thể áp dụng biện pháp kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Hồ sơ khởi kiện đòi lại tài sản bằng tiếng nước ngoài thì phải làm sao ? Trả lời đối với các tài liệu, hồ sơ khởi kiện đòi lại tài sản nếu được viết bằng tiếng nước ngoài thì trước khi nộp đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần được dịch sang tiếng Việt. Các bản tài liệu khác nếu được nộp bằng bản sao thì cần được xác nhận sao y bản chính theo đúng quy định. Luật Vạn Phúc là nơi uy tín và có kinh nghiệm dày dặn trong việc tư vấn giải quyết tranh chấp kiện đòi tài sản theo quy định của BLDS. Với đội ngũ luật sư và những chuyên viên pháp lý vô cùng tâm huyết, chúng tôi cam kết thời hạn và chi phí khi sử dụng dịch vụ tư vấn của công ty chúng tôi sẽ đảm bảo thực hiện công việc theo đúng tiến độ thỏa thuận, tuân thủ đúng quy định pháp luật với chi phí vô cùng hợp lý, cạnh tranh trên thị trường. Chúng tôi sẽ tư vấn cho quý khách hàng để quý khách hiểu rõ bản chất của vấn đề, hiểu rõ thủ tục, quy trình theo quy định của pháp luật để bảo vệ tối ưu nhất quyền lới của quý khách. Trên đây là bài viết kiện đòi tài sản theo quy định của BLDS của Luật Vạn Phúc. Nếu quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn hay Dịch vụ luật sư giải quyết đòi lại tài sản vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi. Đọc thêm Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất chuẩn pháp lý hiện nay Đọc thêm Dịch vụ giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp uy tín nhất
Quy định về quyền đòi lại tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2015 so với Bộ luật dân sự năm 2005? Các điều kiện kiện đòi lại tài sản?Pháp luật luôn được coi là công cụ quan trọng và hiệu quả nhất trong quản lý xã hội hay trong việc bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể đối với tài sản. Vấn đề quyền sở hữu luôn là một vấn đề thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà luật học mà còn của toàn người dân trong xã hội. Hiện nay, những quy định chung về quyền sở hữu trong các văn bản pháp luật đóng vai trò chủ đạo, là cơ sở quan trọng mang tính định hướng cho các quan hệ kinh tế, các quan hệ dân sự trong đời sống. Quyền đòi lại tài sản là một chế định có ý nghĩa to lớn để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự. Bài viết dưới đây công ty Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về quyền đòi lại tài sản và các điều kiện kiện đòi lại tài sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí 1. Quy định về quyền đòi lại tài sản trong Bộ luật dân sự năm 2015 so với Bộ luật dân sự năm 2005 Theo Điều 166 Bộ luật dân sự 2015 đã đưa ra quy định về quyền đòi lại tài sản như sau “Điều 166. Quyền đòi lại tài sản 1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. 2. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó”. Như vậy, ta có thể hiểu một cách đơn giản theo quy định của pháp luật hiện hành thì quyền đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu cơ quan Tòa án có thẩm quyền buộc các chủ thể là người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Căn cứ theo khoản 1 Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015, chủ sở hữu đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, chủ sở hữu sẽ không thể đòi lại tài sản của mình. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền đối với tài sản đó theo quy định tại khoản 2 Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015. Pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu nhưng cũng đồng thời bảo vệ các chủ thể có một số quyền đối với tài sản của chủ sở hữu như quyền bề mặt, quyền hưởng dụng hay quyền đối với bất động sản liền kề. Chính bởi vì thế mà chủ sở hữu tài sản không thể đòi lại tài sản trong trường hợp này. Ta nhận thấy, Bộ luật dân sự năm 2015 ra đời đã bỏ đi những điều kiện cụ thể khi cho phép chủ sở hữu đòi lại tài sản từ chủ thể đang có quyền khác trong mọi trường hợp thay vì bị hạn chế như ở luật cũ, điều này đã góp phần bảo đảm quyền và lợi ích của chủ sở hữu của tài sản so với quy định của Bộ luật dân sự 2005. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình – Đối với động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản thì Điều 258 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau “Chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản phải đăng kí quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa ” – Tại Bộ luật dân sự năm 2015, quy định này đã được sửa đổi như sau “Điều 168. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này.” Theo khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015 thì đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. Vậy, ta nhận thấy, trong Bộ luật dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm quy định đối với trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản từ giao dịch dân sự được coi là vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi của họ trước pháp luật. Việc một người có được tài sản thông qua việc mua đấu giá hoặc giao dịch với người đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là chủ sở hữu của tài sản là trường hợp mà người ngay tình hoàn toàn không có lỗi họ sẽ được pháp luật bảo vệ bởi vì trước lúc tài sản được đưa đấu giá thì sẽ có một khoảng thời gian để nơi bán đấu giá giới thiệu về sản phẩm hoặc liên tục công khai về tài sản đó; chính vì vậy, trong trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp không thể đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình mà chỉ có thể áp dụng phương thức kiện khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình như kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật. Quy định về chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình. Để đáp ứng nhu cầu trả lại tài sản cho nguyên đơn phụ thuộc căn bản vào tính chất của việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật của bị đơn. Do đó, người ta phân biệt việc chiếm hữu này thành hai dạng Đó là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình. – Theo Điều 189 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nội dung như sau Các chủ thể là người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Và ngược lại được coi là không ngay tình đối với người chiếm hữu tài sản của người khác phải biết hoặc buộc phải biết sự chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật. Có thể thấy việc chiếm hữu tài sản như vậy bao hàm hai yếu tố cụ thể sau đây + Thứ nhất Yếu tố khách quan mọi sự chiếm hữu tài sản mà không phù hợp với quy định của điều 183 Bộ luật dân sự năm 2015 “Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp sau 1. Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản. 2. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản. 3. Người được giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật. 4. Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, bị chìm đắm phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định. 5. Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định. 6. Các trường hợp khác do pháp luật quy định ” Nếu không đáp ứng các điều kiện trên thì đều bị coi là chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật, bất luận người chiếm hữu đó biết hay không biết các quy định trên hay không. Khái niệm này được thắt chặt tại quy định tài khoản 2 Điều 165 của Bộ luật dân sự 2015 khẳng định nội dung sau “Điều 165. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật 1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây a Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản; b Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản; c Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; d Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; đ Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; e Trường hợp khác do pháp luật quy định. 2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. 2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật”. + Thứ hai Yếu tố chủ quan thể hiện ở thái độ, ý thức và mức độ hiểu biết pháp luật của người chiếm hữu tài sản của người khác. Việc phân biệt chiếm hữu thành hai loại như vậy không chỉ làm cơ sở để đáp ứng hay không yêu cầu lấy lại vật của nguyên đơn mà còn để giải quyết các hậu quả liên quan. Điều 166, 167, 168 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng đã quy định trong việc kiện đòi lại tài sản thì chủ sở hữu được lấy lại tài sản khi có đầy đủ các yếu tố sau đây – Tài sản rời khỏi chủ sở hữu hay rời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ hoặc theo ý chí của họ như người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù. – Các chủ thể là đối tương thực tế đang chiếm giữ tài sản là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình. – Tài sản hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp đối với tài sản đó. – Tài sản không còn là bất động sản hoặc động sản in phải đăng ký quyền trường hợp khác do pháp luật Việt Nam quy định. Việc kiện đòi lại tài sản có những yêu cầu cụ thể như sau – Thứ nhất là về nguyên đơn + Các chủ thể là người kiện đòi lại tài sản phải là chủ sở hữu của tài sản đó được xác lập theo những căn cứ do Bộ luật dân sự năm 2015 quy định và chủ sở hữu cũng cần có đầy đủ các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt với tài sản cũng có thể là người có quyền khác đối với tài sản thông qua những căn cứ xác lập quyền được pháp luật quy định cụ thể. + Các chủ thể là chủ sở hữu cần phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản đang bị bị đơn chiếm giữa bất hợp pháp. Cần lưu ý rằng chủ thể ở đây có thể là bất kì ai, là cá nhân hoặc tổ chức là người có thể chứng được mình có quyền sở hữu hay có quyền khác đối với tài sản đang bị bị đơn chiếm hữu bất hợp pháp theo đúng quy định pháp luật. Các chủ thể là người chiếm hữu không ngay tình và không có căn cứ pháp luật sẽ trả phải lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người có quyền khác đối với tài sản đó. – Thứ hai đối với bị đơn + Các chủ thể là người bị kiện, có thể là người đang thực tế chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật và không ngay tình như các tài sản do hành vi trộm cắp, cướp, lừa đảo mà có hay biết tài sản đó là của gian mà vẫn mua, hoặc nhặt được tài sản do chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đánh rơi, bỏ quên,… nhưng các chủ thể này lại không giao nộp cho cơ quan chức năng. + Đối với trường hợp người sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật không ngay tình nhưng đã giao tài sản cho người thứ ba thì người thứ ba cũng có nghĩa vụ hoàn trả tài sản đó nếu chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu hoàn trả. Hay nói chung lại khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ thì người đang thực tế chiếm hữu tài sản đó đều phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 581 Bộ luật dân sự năm 2015. + Đối với trường hợp khi bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình mà tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu như thông qua một giao dịch có đền bù và theo ý chí của người chiếm hữu, thì chủ sở hữu sẽ không có quyền đòi lại tài sản người đang thực tế chiếm giữ mà sẽ kiện người mình đã chuyển giao tài sản theo hợp đồng vì đây là trách nhiệm theo hợp đồng đã ký trước đó giữa các bên. + Trong trường hợp khi bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình đối với bất động sản và tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu đòi lại tài sản. Bởi vì đối với những tài sản này người mua chỉ có quyền sở hữu khi sang tên đăng ký chuyển quyền sở hữu từ người chủ sở hữu. + Còn trong trường hợp các chủ thể là người chiếm hữu không ngay tình thông qua giao dịch với người chủ sở hữu theo quyết định của cơ quan tòa án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc mua bán thông qua bán đấu giá thi hành án nhưng sau đó những căn cứ trên không còn thì các chủ thể là người chiếm hữu ngay tình có quyền sở hữu những tài sản mà mình đã mua theo đúng quy định pháp luật hiện hành trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp trả lại tài sản cho mình. Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu này được quy định cụ thể tại Điều 164 Bộ luật dân sự 2015 “Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản 1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy định của pháp luật. 2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.” Trong đó Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền “yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản”. Do đó, Kiện đòi lại tài sản là một phương thức được pháp luật công nhận và bảo vệ. Vậy để khởi kiện kiện đòi lại tài sản cần đáp ứng những điều kiện nào? Điều kiện, trình tự thủ tục, hồ sơ, các giấy tờ pháp lý cần thiết để kiện đòi lại tài sản. i. điều kiện khởi kiện 1. Người khởi kiện nguyên đơn phải chứng minh quyền kiện đòi tài sản Để chứng minh quyền kiện đòi tài sản, trước hết, người khởi kiện phải chứng minh mình là chủ thể có quyền kiện đòi lại tài sản. Theo điều Điều 166 Bộ luật dân sự 2015, chủ thể có quyền kiện đòi ở đây bao gồm Chủ sở hữu và Chủ thể có quyền khác đối với tài sản. a Định nghĩa – Chủ sở hữu là những chủ thể có đầy đủ ba quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản theo quy định tại Điều 158 Bộ luật dân sự 2015. Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Chủ sở hữu là người có toàn quyền đối với tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình. – Chủ thể có quyền khác đối với tài sản là chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác. Quyền khác đối với tài sản bao gồm a Quyền đối với bất động sản liền kề; b Quyền hưởng dụng; c Quyền bề mặt. b Chứng minh Trên thực tế, việc chứng minh quyền sở hữu là rất khó khăn nhất là đối với trường hợp tài sản là động sản không đăng ký quyền sở hữu laptop, điện thoại di động… khi mà tài sản không chỉ chuyển đổi người chiếm giữ một, hai lần mà qua rất nhiều giao dịch dân sự khác nhau. Do đó, nguyên đơn thường phải đưa ra được đặc điểm riêng, đặc trưng để nhận biết tài sản đó. Đối với tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản thường dễ dàng hơn bởi trong trường hợp này có giấy tờ chứng minh. Mặt khác, trong một số trường hợp chủ sở hữu phải chứng minh được tài sản đang đòi đã bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu đánh rơi, bỏ quên, bị mất cắp…. Trong trường hợp người chiếm hữu tài sản nhận được tài sản thông qua giao dịch không đền bù thì không phải chứng mình điều kiện này. c Bồi thường Sau khi chứng minh được quyền kiện đòi, về nguyên tắc, người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật bị đơn phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc chủ thể có quyền khác đối với tài sản nguyên đơn theo khoản 1 Điều 579 Bộ luật dân sự 2015. Khi lấy lại tài sản, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản không phải bồi thường một khoản tiền nào, trừ trường hợp bồi thường cho người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình phải bỏ ra chi phí hợp lí để sửa chữa tài sản, làm tăng giá trị của tài sản. Như vậy, trường hợp bồi thường chỉ đặt ra đối với người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình Điều 583 Bộ luật dân sự 2015. 2. Người bị kiện bị đơn là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật Người bị kiện bị đơn là người chiếm hữu tài sản của người khởi kiện không có căn cứ pháp luật và là người đang trực tiếp nắm giữ tài sản đó Người bị kiện có thể là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình hoặc người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình được xác định cụ thể tại Điều 180 và Điều 181 Bộ luật dân sự 2015. Việc xác định tính chất chiếm hữu tài sản của người bị kiện là ngay tình hay không ngay tình có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án bởi điều này không chỉ làm cơ sở để đáp ứng hay không yêu cầu lấy lại tài sản của nguyên đơn mà còn để giải quyết các hệ quả liên quan như yêu cầu người đã trực tiếp chuyển giao tài sản cho mình phải thanh toán chi phí Điều 583 Bộ luật dân sự 2015 cũng như nghĩa vụ của người chiếm hữu trong việc hoàn trả hoa lợi, lợi tức phát sinh trong thời gian chiếm hữu tài sản Điều 581 Bộ luật dân sự 2015 3. Điều kiện đối với đối tượng kiện đòi Tài sản còn Đối tượng kiện đòi được xác định rất rõ ràng đó là tài sản. Để có thể lựa chọn phương thức kiện đòi tài sản, ngoài hai yêu cầu về mặt chủ thể tham gia nêu trên còn phải đáp ứng điều kiện đó là tài sản còn tồn tại và đang nằm trong sự chiếm giữ của bị đơn. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Tuy nhiên do đặc thù của phương thức kiện đòi lại tài sản cho nên không phải tất cả những tài sản được liệt kê tại Điều 105 đều là đối tượng của kiện đòi lại tài sản . VẬT Để áp dụng phương thức kiện đòi lại tài sản thì tài sản phải là vật có thực và tồn tại trên thực tế với 2 trường hợp còn nguyên ở trạng thái ban đầu hoặc về cơ bản vẫn còn nhưng bị giảm sút giá trị hoặc đã được làm tăng giá trị. Nếu vật hiện không còn tồn tại do đã bị mất mà không xác định được ai là người đang thực tế chiếm hữu hoặc bị tiêu hủy thì cũng không thể áp dụng biện pháp kiện đòi lại tài sản được mà chỉ có thể áp dụng biện pháp kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. TIỀN Tiền được coi là một loại tài sản riêng biệt. Chủ sở hữu có thể kiện đòi lại tiền trong trường hợp biết rõ số seri của những tờ tiền đó mà hiện đang bị người khác chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Trường hợp tiền đã được bao gói niêm phong mà bị người khác chiếm hữu trái pháp luật và hiện số tiền đó vẫn còn nguyên bao thì bản chất kiện đòi lại tài sản trong trường hợp này là kiện đòi lại tài sản là vật một gói tiền chứ không phải là kiện đòi lại tiền. Do vậy, tùy từng trường hợp mà tiền có thể là đối tượng hoặc không phải là đối tượng của kiện đòi lại tài sản. GIẤY TỜ CÓ GIÁ Giấy tờ có giá với tư cách là giấy tờ minh chứng cho quyền tài sản, giá trị của giấy tờ có giá chính là giá trị của quyền tài sản mà nó minh chứng. Giấy tờ có giá là loại tài sản hữu hình, được xếp vào loại tài sản là động sản. Giấy tờ có giá có thể là đối tượng của quyền đòi lại tài sản. QUYỀN TÀI SẢN Quyền tài sản là loại tài sản vô hình, do đó không thể thực hiện được quyền chiếm hữu với loại tài sản này. Căn cứ vào đặc điểm của phương thức kiện đòi lại tài sản thì quyền tài sản không phải là đối tượng của kiện đòi lại tài sản. Khi quyền tài sản bị xâm phạm thì tùy thuộc vào tính chất, mức độ xâm phạm mà chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có thể yêu cầu phương thức kiện chấm dứt hành vi xâm phạm hoặc kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. ii. hồ sơ khởi kiện 1. Số lượng 1 bộ 2. Thành phần – Các tài liệu chứng minh nhân thân trong tranh chấp Chứng minh nhân dân, hộ khẩu người khởi kiện, của các đương sự và người có liên quan khác nếu có. – Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. – Các chứng cứ, tài liệu chứng minh cho lỗi/sự vi phạm nghĩa vụ của một/các bên – Các tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung tranh chấp khác nếu có – Bản kê các tài liệu nộp kèm theo đơn kiện ghi rõ số bản chính, bản sao – Biên lai nộp lệ phí hoặc tiền tạm ứng án phí sau đó Lưu ý Các tài liệu nêu trên là văn bản, tài liệu tiếng nước ngoài đều phải được dịch sang tiếng Việt Nam do cơ quan, tổ chức có chức năng dịch thuật, kèm theo bản gốc. Các văn bản tài liệu khác nếu nộp bản sao thì phải được xác nhận sao y bản chính iII. quy trình giải quyết Bước 1 Nộp đơn hồ sơ khởi kiện Bước 2 Xử lý đơn khởi kiện Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây a Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; b Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này; c Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác; d Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Bước 3 Ra thông báo nộp tạm ứng án phí Bước 4 Đương sự nộp biên lai nộp tạm ứng án phí cho Tòa án, thẩm phán phụ trách ra quyết định thụ lý vụ án và gửi thông báo thụ lý tới các đương sự và Viện kiểm sát. Bước 5 Các bên đương sự có văn bản trình bày ý kiến đối với nội dung khởi kiện trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Bước 6 Quyết định đưa vụ án ra xét xử iv. án phí – Án phí dân sự trong vụ án về tranh chấp kiện đòi lại tài sản bao gồm án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm – Nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí Nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án dân sự phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí – Thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí – Mức án phí sơ thẩm phải nộp Tranh chấp đòi lại tài sản là trường hợp tranh chấp về dân sự có giá ngạch Từ đồng trở xuống đồng Từ trên đồng đến đồng 5% giá trị tài sản có tranh chấp Từ trên đồng đến đồng đồng + 4% của phần giá trị tranh chấp vượt quá đồng Từ trên đồng đến đồng đồng + 3% của phần giá trị tranh chấp vượt quá đồng Từ trên đồng đến đồng đồng + 2% của phần giá trị tranh chấp vượt đồng Từ trên đồng đồng + 0,1% của phần giá trị tranh chấp vượt đồng – Mức án phí phúc thẩm đối với tranh chấp kiện đòi tài sản đồng v. thời hạn giải quyết Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án kinh doanh thương mại từ 2 đến 4 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án Thời hạn mở phiên tòa vụ án kinh doanh thương mại từ 1 đến 2 tháng kể từ ngày có Quyết định đưa vụ án ra xét xử Song trên thực tế, các vụ án thường kéo dài hơn với thời gian nhiều năm, do nhiều nguyên nhân như tranh chấp phức tạp cả về nội dung lẫn hình thức tố tụng, trong khi một số quy định của pháp luật chưa đầy đủ, rõ ràng, chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng, còn nhiều quan điểm khác nhau về hướng giải quyết, liên quan đến nhiều người. vi. căn cứ pháp lý Bộ luật dân sự 2015 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Vui lòng liên hệ với LTS LAW để được tư vấn chi tiết và cụ thể hơn. Liên hệ LTS LAW
kiện đòi tài sản