phân tích đoạn 2 vội vàng
Đề bài: Anh chị hãy phân tích 13 câu đầu bài thơ vội vàng. Xuân Diệu là ông hoàng của tình yêu, dù đó là tình yêu gì đi chăng nữa thì nó vẫn ngọt ngào đầy xúc cảm. Ông còn được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Những sáng tác,những bài thơ
Dàn ý phân tích đoạn 2 Vội vàng 1. Mở bài: giới thiệu về đoạn 2 bài thơ Vội vàng Ví dụ: Trong tất cả các tác phẩm của Xuân Diệu, một tác phẩm thơ có sự 2. Thân bài: phân tích đoạn 2 của bài thơ Vội vàng a. Mở đầu đoạn thơ: Nỗi vui sướng vội vàng và chớp nhoáng của nhà 3. Kết bài: nêu cảm nhận
Phân tích bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu. Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc "hăm hở" làm
Phân tích 13 câu thơ đầu trong bài thơ Vội vàng - mẫu 2 Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới thời bấy giờ, với hồn thơ đại diện cho tiếng nói thiết tha, tình yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời.
Phân tích tác phẩm Vội Vàng -Ngữ Văn 11Hướng dẫn VỘI VÀNG I- NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ 1.Về tác giả và thời điểm tác phẩm ra đời -Xuân Diệu (1916 - - Xem bài viết Phân tích tác phẩm Vội Vàng -Ngữ Văn 11 chi tiết. Đấy là lí do vì sao mạch cảm xúc trong đoạn thơ
Tu Ne Rencontre Personne Par Hasard.
Phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” tác giả Xuân Diệu đặc sắc nhất Phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” qua dàn ý, một số dạng đề văn phân tích đoạn 2 hay và ý nghĩa trong bài viết dưới đây! “Vội vàng” là một tác phẩm thể hiện rất rõ trái tim yêu đời tha thiết, tâm hồn rạo rực đắm say và một cái tôi đầy cá tính riêng biệt của Xuân Quỳnh. Để hiểu sâu hơn về hồn thơ rất tình trong tác phẩm này, mời bạn đọc tham khảo bài viết phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” dưới đây. Nội dung bài viết1 Dàn ý phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” Mở bài phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” Thân bài phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” Kết bài “Vội vàng” đoạn 22 Một số dạng đề văn phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” Đề bài Viết đoạn văn phân tích cảm nhận của anh chị về khổ 2 “Vội vàng” Đề bài Viết đoạn văn phân tích quan niệm mà Xuân Diệu gửi gắm qua đoạn 2 bài thơ “Vội vàng” Đề bài Viết đoạn văn phân tích nội dung đoạn 2 “Vội vàng” Dàn ý phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” Nếu bạn đang cảm thấy khó ghi nhớ những ý chính khi phân tích khổ thơ này thì dàn ý phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” dành cho học sinh giỏi dưới đây là dành cho bạn. Dàn bài sẽ giúp bạn đọc tổng hợp những nội dung cần chú ý cùng những nét nghệ thuật tiêu biểu nhất. Mở bài phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” – Giới thiệu tác giả, tác phẩm + Giới thiệu tác giả Xuân Diệu 1916 – 1985, được mệnh danh là ông hoàng thơ tình yêu, ông mang trong mình một khát khao thể hiện cái tôi cùng trái tim yêu tha thiết, bởi vậy sự xuất hiện của ông trong phong trào Thơ Mới đã thổi một luồng gió khác biệt, mới mẻ vào thế giới nghệ thuật lúc bấy giờ. + Giới thiệu tác phẩm Tác phẩm “Vội vàng” được trích trong tập “Thơ thơ”, được đánh giá là một sáng tác nổi bật và thể hiện rõ nhất tư tưởng và phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. – Dẫn dắt vào vấn đề Có thể nói, “Vội vàng” nói chung và khổ 2 của bài thơ nói riêng chính là minh chứng của một hồn thơ khao khát yêu và khao khát sống, đồng thời bài thơ cũng thay Xuân Diệu truyền tải thông điệp hãy sống hết mình, trọn vẹn từng giây, từng phút, đặc biệt những năm tháng của tuổi trẻ nồng nhiệt. Thân bài phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” – Xuân Diệu nhận ra và ý thức được quy luật của tạo hóa “Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già” + “Xuân tới” – “xuân qua” Xuân đến, xuân đi, thời gian vô tận và liên tục trôi, trong khi người ngắn ngủi và có giới hạn. + “Xuân còn non” – “xuân sẽ già” Ẩn dụ cho tuổi trẻ của con người, dòng thời gian cứ chảy, nên thanh xuân sẽ sớm qua và tuổi già rồi cũng nhanh đến, đây đã là một lẽ tự nhiên, một quy luật của tạo hóa, không thể nào thay đổi. – Cảm xúc của Xuân Diệu trước quy luật bất biến của tạo hóa “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” + “Xuân hết” – “tôi cũng mất” Xuân không chỉ là sự tươi mới của đất trời mà xuân còn là tuổi trẻ, tuổi trẻ qua đi, cuộc đời với Xuân Diệu cũng không còn gì là ý nghĩa, thú vị thế nên thi sĩ lo sợ trước sự chảy trôi của thời gian. + “Lòng tôi rộng” – “lượng trời cứ chật” 2 cụm từ mang ý nghĩa tương phản, cho thấy dù lòng người có rộng lớn, mang nhiều hoài bão, khát khao, nhưng cũng phải bất lực trước sự gấp rút của thời gian, sự hữu hạn của tuổi trẻ, của cuộc đời. + “Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian” Xuân Diệu luyến tiếc vì tuổi xuân, đời người ngắn ngủi, trách tạo hóa hẹp hòi không cho con người thêm thời gian để sống, để vui với đời. + “Nói làm chi … “hai lần thắm lại” Thể hiện nỗi lòng tiếc nuối, khao khát níu kéo thanh xuân, ước mong ngưng đọng thời gian của thi sĩ. – Những suy tư, cảm nhận của thi sĩ khi nghĩ đến nhân sinh ngắn ngủi, kiếp người hạn hẹp “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…” + “Còn trời đất. . . đất trời” Sự ngậm ngùi, luyến tiếc cuộc đời, sự sống được đẩy lên cao trào, đỉnh điểm. + “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi” Đây là tiếng thơ mang đầy bất lực, ẩn chứa niềm đau, nỗi sầu vì cuộc đời là hữu hạn, mỗi thời khắc đều mang màu li biệt, chia xa, dường như Xuân Diệu tự ý thức được việc chẳng bao giờ thời gian ngừng lại và chẳng bao giờ có thể sống lại ngày hôm qua một lần nữa. + “Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…” Nỗi đau chia phôi ấy không chỉ khiến con người phiền muộn, tiếc nuối, đến cả sông núi, đất trời, vũ trụ cũng không khỏi ngậm ngùi, khóc thầm, rồi phải cất lên lời tiễn biệt đầy đau đớn. Kết bài “Vội vàng” đoạn 2 – Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật + Giá trị nội dung Khổ thơ đã làm nổi bật quy luật thời gian vô tận nhưng đời người là hữu hạn, từ đó nhắn nhủ người đọc phải sống trọn vẹn từng phút giây, cho thấy trái tim rạo rực yêu, tâm hồn rất nồng cháy của Xuân Diệu. + Giá trị nghệ thuật Sử dụng khéo léo các biện pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ tương phản, kết hợp với giọng điệu thơ tự nhiên, sôi nổi nhưng cũng rất sâu lắng. – Nêu cảm nhận riêng về khổ thơ. Một số dạng đề văn phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” Bên cạnh dàn bài chi tiết, bài viết cũng sẽ tổng hợp thêm cho các bạn một số dạng đề văn phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng” cùng các bài viết mẫu hay nhất. Các bạn hoàn toàn có thể xem đây là nguồn tài liệu tham khảo, hỗ trợ cho việc học tập cho mình. Đề bài Viết đoạn văn phân tích cảm nhận của anh chị về khổ 2 “Vội vàng” Xuân Diệu, một cái tên đã quá quen thuộc đối với những người yêu thơ ca Việt Nam. Trước Cách mạng Tháng 8, hồn thơ Xuân Diệu mang cái tôi đầy riêng biệt và cá tính, tha thiết yêu và nồng nhiệt với đời. Chắc hẳn vì quá đắm say, vương vấn hương sắc trần thế nên lắm khi, thi sĩ phải lên tiếng trách thời gian hạn hẹp, phải ôm lấy luyến tiếc mà sống vội vã, gấp rút. Điều này được thể hiện rất rõ trong bài thơ “Vội vàng”, đặc biệt là ở khổ thơ 2 của tác phẩm. Nếu khổ 1 của bài thơ là những tiếng ngỡ ngàng, reo vui thì cuộc đời quá đỗi tươi đẹp, thì đến khổ 2, Xuân Diệu lại lấy sự hụt hẫng, tiếc nuối để viết tiếp ý thơ của mình. Bởi lẽ, đứng trước cuộc đời tươi đẹp ấy, thi sĩ dường như nhận ra một định luật thời gian tuần hoàn đầy đớn đau “Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già” “Xuân” trong thơ của Xuân Diệu mang nhiều ý nghĩa. “Xuân” là mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất trời và là mùa đẹp nhất trong năm. Xuân đến làm trăm hoa đua nở, ngàn lộc đâm chồi, làm sinh khí dồi dào, căng tràn sức sống. Thế nhưng, mùa xuân lâu đến mà lại rất chóng qua. Xuân Diệu như cảm nhận rất rõ ràng điều này, thế nên trong thơ của thi sĩ, cái nhanh chóng ấy càng trở nên gấp rút, vội vàng. Xuân “đang tới”, có nghĩa là xuân “đang qua”, là hoa sắp tàn, là lộc sắp hết non. Câu thơ kết thúc, người đọc cũng cảm thấy mùa xuân vụt qua. Thế mới thấy, trái tim Xuân Diệu nhạy cảm đến nhường nào. Mùa xuân chưa chạm ngõ mà thi sĩ đã thấy mùa hè sắp sang, mùa xuân chưa qua mà mùa hè đã tới. Cũng phải thôi, ai bảo xuân quá đẹp khiến nhà thơ quá yêu, quá luyến tiếc. Đến Thanh Hải cũng đã từng phải lòng trước vẻ đẹp của nàng xuân “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng. ” Đặc biệt, mùa xuân còn mang một lớp nghĩa khác. “Xuân” chính là tuổi xuân, là đoạn đời đẹp nhất của mỗi người, là lúc sức khỏe dồi dào, trái tim rạo rực và tâm hồn nồng cháy. Nhưng cũng như mùa xuân của đất, của trời, tuổi xuân cũng vô cùng ngắn ngủi, qua nhanh. Con người không thể mãi “còn non”, tuổi trẻ sẽ qua đi và tới đoạn đời “sẽ già”. Ấy là quy luật của tự nhiên, là định luật bất biến, chẳng thể đổi thay. Đáng buồn hơn, ngưỡng cửa của tuổi trẻ và tuổi già lại rất gần, rất mong manh. Nếu không biết sống trọn vẹn, quý trọng từng giây, từng phút, mùa xuân cuộc đời sẽ vụt qua trong tích tắc mà thôi. Trước quy luật tuần hoàn đầy đớn đau ấy, Xuân Diệu viết ra những tiếng lòng chứa chan cảm xúc “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” Cuộc đời với Xuân Diệu chỉ được gói gọn trong 2 chữ tuổi trẻ, thế nên, “xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Tuổi trẻ qua đi, mang theo cả những bồi hồi, rạo rực, những rung động và niềm yêu, chỉ để lại một trái tim khô khan, một thân thể không linh hồn. Điều này khác gì sống vô nghĩa, không niềm vui, sống lay lắt, bấu víu vào cuộc đời tẻ nhạt. Xuân Diệu luyến tiếc cuộc đời tươi đẹp, đâm ra trách cứ “lượng trời cứ chật” trong khi “lòng tôi” thì “rộng”. Cuộc sống có biết bao hương hoa, sắc màu mà thi sĩ muốn tận hưởng, muốn đắm say, nhưng tuổi trẻ lại hạn hẹp, dòng đời không cho phép. Có những ước mơ chưa kịp thực hiện, có những hoài bão chưa kịp thành công, có những lời yêu chưa kịp nói, ấy vậy mà đã phải nói lời chia tay cuộc đời. Sinh lão bệnh tử đã là một quy luật bất biến, thời gian đi qua mà chẳng bỏ bất cứ người nào, ai rồi cũng phải bước qua tuổi trẻ, trở nên già nua. Tất cả mọi người đều chỉ có một cuộc đời để sống, một đoạn tuổi xuân ngắn ngủi. Bởi lẽ tạo hóa trớ trêu, bạc bẽo lắm, đâu có “cho dài thời trẻ của nhân gian”. Một khoảnh khắc trôi qua, có nghĩa trái tim cũng bớt đi một lần được đập, tâm hồn cũng bớt đi một hồi được nồng cháy, đắm say. Có thể nói, nỗi niềm tiếc nuối, hụt hẫng của Xuân Diệu tràn ngập khắp các vần thơ, rồi tràn sang cả tâm trí người đọc. Thi sĩ tiếc nuối, hụt hẫng rồi đâm ra trách cứ, hờn dỗi. Trách cứ, hờn dỗi vì cuộc đời “vẫn tuần hoàn” trong khi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Mùa xuân của đất trời sẽ lặp lại theo vòng quay của thời gian, nhưng “xuân” của đời người thì khác, sẽ vĩnh viễn và chẳng bao giờ có lần tiếp theo. Bởi lẽ đó, dù dòng chảy vĩnh hằng của tạo hóa lặp lại tuần hoàn thì tất cả cũng trở nên vô nghĩa, vì “tôi” lúc đó không còn là “tôi” của tuổi trẻ rạo rực. Xuân Diệu một lần khác cũng bày tỏ “Cái bay không đợi cái trôi Từ tôi phút ấy sang tôi phút này” Những dòng thơ như thay Xuân Diệu bày tỏ khao khát níu kéo thanh xuân, mong muốn ngưng đọng thời gian, ước mơ được sống trọn vẹn từng phút từng giây “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…” Vẫn là nỗi niềm luyến tiếc ấy nhưng ở những câu tiếp theo này trong đoạn 2 “Vội vàng”, luyến tiếc ấy không còn là luyến tiếc vì cuộc đời hạn hẹp. Bởi lẽ, dẫu ý thức được bản thân chẳng thể tồn tại mãi để tận hưởng thiên nhiên đất trời tươi đẹp nhưng Xuân Diệu không còn tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính là “cả đất trời”. Thi sĩ tiếc nuối vì không thể nếm trải đủ mọi sắc hương của cuộc đời, đã phải “vội vàng” ra đi. Như vậy, sự ngậm ngùi, luyến tiếc cuộc đời, sự sống được đẩy lên một bậc cao hơn, lên tới cao trào, đỉnh điểm. Như Nguyễn Du từng nói, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, thế nên, bởi Xuân Diệu cảm thấy hối tiếc nên cảnh vật cũng nhuốm màu sắc u buồn, mất mát và chia ly “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt” Xuân Diệu đã sáng tạo ra một nghệ thuật ẩn dụ rất độc đáo, tháng năm – thời gian không còn được cảm nhận qua sự thay đổi, biến hóa của vạn vật như sắc là, loài cây mà được cảm nhận qua khứu giác – “mùi tháng năm”. Phải nói rằng, hồn thơ Xuân Diệu phải tinh tế lắm, nên mới có thể ngửi được mùi của thời gian, của tạo hóa, của đời người. Dường như, đến đây, cảm xúc đau đớn vì nỗi đau chia lìa trong thi sĩ đang tuôn trào mạnh mẽ, thế nên ta mới thấy có chút gì đó rưng rưng, xao xuyến, nghe vừa nghẹn ngào, vừa luyến tiếc, vừa uất hận, vừa hụt hẫng. Tất cả đã được thể hiện thông qua từ “rớm” ấy. Thì ra thời gian cũng không vô tình, bạc bẽo như ta vẫn thường mặc định, mà ngược lại, tháng năm dường như cũng đang tiếc nuối cho chính con người vì cuộc đời hạn hẹp, vì phải nếm trải mùi vị chia lìa. Ý thơ này của Xuân Diệu bất giác làm ta liên tưởng đến những câu thơ của Đoàn Phú Tứ, đó là “Màu thời gian không xanh Màu thời gian tím ngát Hương thời gian không nồng Hương thời gian thanh thanh” Đề bài Viết đoạn văn phân tích quan niệm mà Xuân Diệu gửi gắm qua đoạn 2 bài thơ “Vội vàng” Không phải tự nhiên mà Xuân Diệu đã từng được nhà thơ được Hoài Thanh nhận xét là “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Bởi lẽ, hồn thơ ông mang cái tôi rất cá tính và riêng biệt. Hồn thơ ấy được khơi nguồn từ một trái tim yêu say đắm cuộc đời, luôn khao khát sống mãnh liệt và ôm hoài bão đầy xuân đầy tình. Và bài thơ “Vội vàng” chính là một minh chứng tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Diệu. Phải nói rằng, cả tác phẩm nói chung và khổ 2 của bài thơ nói riêng đã thay thi sĩ thể hiện quan niệm sống vội vàng rất mới mẻ và có ý nghĩa. Người ta vẫn dùng từ “vội vàng” như một tính từ để cho thấy sự gấp gáp, nhanh chóng. Xuân Diệu cũng vậy, nhưng cái “vội vàng” của thi sĩ được gắn với cuộc đời con người nên lớp nghĩa của nó cũng trở nên sâu sắc, thi vị hơn. Dường như, với Xuân Diệu sống “vội vàng” là sống nhanh, sống gấp, sống “vội vàng” để có thể tận lực cống hiến, có thể thưởng thức trọn vẹn mọi vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban tặng. Đương nhiên, sống “vội vàng” theo cách nghĩ của thi sĩ khác hoàn toàn so với cách sống gấp gáp, vội chạy theo giá trị vật chất, vội chạy theo xu hướng thời thượng, vội sống hưởng thụ mà quên mất làm việc, sa ngã bào lối sống tiêu cực của giới trẻ hiện nay. Đó là lối sống tích cực, làm đẹp cho đời, góp thêm hương, thêm sắc cho cuộc sống. Chính quan niệm sống “vội vàng” này của Xuân Diệu đã góp phần tìm đường cho những mảnh đời đã lầm đường lạc lối, đánh thức cho những kẻ đang bơ vơ, chới với đi tìm lẽ sống đích thực. Xuân Diệu phải sống vội vàng là bởi vì ông đã nhận ra quy luật trôi bất biến đầy khắc nghiệt của tạo hóa cùng sức mạnh tàn phá khủng khiếp của thời gian. Người ta vẫn bảo thời gian là tuần hoàn, lặp lại nhưng đối với Xuân Diệu, ông lại có cái nhìn hoàn toàn khác. Thời gian với thi sĩ là một đường tuyến tính một đi không trở lại “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất” Xuân Diệu không cần mùa hạ đến để thấy mùa xuân đi qua, không cần phượng đỏ để nhắc nhớ đào phai, mai tàn. Thi sĩ thấy “xuân đương qua” ngay cả khi “xuân đương tới”, thấy nuối tiếc, hoài xuân ngay cả khi mùa xuân đang hiện hữu. Theo cảm nhận của ông, xuân đến tức là xuân qua, mà xuân còn non tức là xuân sẽ già, thậm chí là xuân hết, đồng nghĩa trái tim nhà thơ cũng ngừng đập. “Xuân” ấy không chỉ là mùa xuân của đất trời, mà còn là tuổi xuân của đời người. Xuân Diệu trân trọng tuổi trẻ của chính mình như yêu quý mùa xuân thiên nhiên. Mùa xuân trôi qua, đất trời trong mắt Xuân Diệu như mất đi mọi hương hoa, sắc màu, và tuổi trẻ đi mất, cuộc đời với ông cũng trở nên vô vị, không còn ý nghĩa. Bởi lẽ tuổi trẻ là quãng đời hạnh phúc, tươi đẹp, hạnh phúc của mỗi người. Đó là lúc thân thể còn dồi dào sức khỏe, căng tràn nhựa sống, con tim đang rạo rực cháy ngọn lửa tình yêu, tâm hồn vẫn phóng khoáng, tự do bay bổng cùng những ước mơ, khát vọng. Tuổi trẻ đẹp nhưng cũng ngắn ngủi vô cùng và rất thoáng qua. Hiểu được điều này, Xuân Diệu đã dùng ý thơ để gửi gắm đến bạn đọc một thông điệp sống, điều này khiến câu thơ nhuốm màu nhân sinh sâu sắc. Thông điệp đó là, hãy biết quý trọng, nâng niu từng khoảnh khắc của cuộc đời, đặc biệt là khoảng thời gian ngắn ngủi của tuổi trẻ, thanh xuân. Khoảng thời gian ấy ta đã có tất cả sức khỏe, có hoài bão, có ước mơ, có niềm tin và có cả cơ hội để trải nghiệm, để thất bại, để vấp ngã. Cuộc đời sẽ có ý nghĩa vô cùng nếu ta đã có một tuổi trẻ đáng sống. Hãy sống trọn vẹn từng phút, từng giây, hãy để trái tim được yêu cuồng nhiệt, để tâm hồn được đắm say nồng nàn khi còn có thể. Bởi thời gian là vô tận nhưng đời người là hạn hẹp, mùa xuân đất trời là tuần hoàn nhưng tuổi xuân chúng ta chỉ có một mà thôi “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” Nhà thơ dường như mang trong lòng một nỗi ám ảnh, ám ảnh về sự tàn phá của thời gian và ám ảnh về sự chia lìa, xa cách. Chính điều này khiến cho qua lăng kính của thi sĩ, mọi vật đều mang màu u buồn, thương tiếc “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt” Có thể thấy, mọi vật đều được Xuân Diệu nhân hóa, ban phát cho linh hồn, sự sống để rồi như con người cũng biết buồn, biết vui, biết lo sợ sự chảy trôi không ngừng của thời gian. Nỗi sợ chia phôi được đẩy lên cao trào, như một lần nữa nhắc nhở người đọc phải biết yêu, biết tận hưởng và biết sống. Vậy tại sao Xuân Diệu lại có thể đưa ra một quan điểm sống mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc đến như vậy? Ông là nhà thơ luôn khao khát giao hòa, giao cảm với cuộc đời, yêu tha thiết sự sống xung quanh mình. Phải chăng vì trái tim thi sĩ quá nồng nhiệt, tâm hồn thi sĩ quá nồng say và tình yêu dành cho cuộc đời quá căng tràn và đong đầy. Đề bài Viết đoạn văn phân tích nội dung đoạn 2 “Vội vàng” Có thể nói, “Vội vàng’’ là một trong những tác phẩm tiêu biểu, được nhắc đến nhiều nhất trong tập “Thơ thơ” 1938 của Xuân Diệu. Đã qua mấy mươi năm dài ròng rã, vậy mà những vần thơ độc đáo, sáng tạo, mang triết lý ý nghĩa thời gian, về tuổi xuân, về tình yêu đời, yêu cuộc sống ấy vẫn lôi cuốn, làm đắm say tâm hồn những người yêu thơ một cách kì lạ. Đặc biệt là phân tích khổ 2 bài “Vội vàng”, đoạn thơ đã giúp Xuân Diệu bày tỏ những cảm nhận về thời gian và đời người. Đầu tiên là hai câu thơ đầu đoạn, bằng cách ngắt nhịp 3/5, Xuân Diệu đã đem cả dòng chảy của mùa xuân, của thời gian vào bài thơ của mình “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” Các từ ngữ đối lập “đương tới” – “đương qua”, “còn non” – “sẽ già” đã kết hợp, hỗ trợ tương ứng cho nhau, tạo nên sự vận động không ngừng của mùa xuân đất trời và mùa xuân đời người. Phân tích khổ 2 bài “Vội vàng”, ta thấy dòng chảy của thời gian cứ mải miết trôi, để rồi xuân chỉ “đang tới” mà nghe như đã “đương qua”. “Đương” chứ không phải là “đang”, phải nói đây là một cách nói rất điệu, rất thơ của Xuân Diệu. Tuổi trẻ của con người cũng thoáng qua như thế, trong dáng vẻ “còn non” hôm nay đã báo hiệu, nhắc nhở về một ngày mai rồi cũng “sẽ già”. Chẳng có ai nằm ngoài quy luật của tự nhiên, cũng chẳng có ai bị lãng quên bởi thời gian cả. Thời gian vô hạn nhưng đời người hữu hạn là vì thế. Cũng chữ “non” và chữ “già” ấy, ta bất giác nhớ đến những vần thơ về tình yêu đầy tinh tế khác của Xuân Diệu “Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt. . . . . . Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em, em ơi! Tình non sắp già rồi. . . ” Ở những câu thơ tiếp theo, thi sĩ tập trung ngòi bút để nhắc nhớ người đọc về một nghịch lý giữa tuổi trẻ, đời người và thời gian, vũ trụ “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” Đây cũng chính là một niềm đau đớn, một nỗi xót xa mà đời người ai cũng phải nếm trải. Khi “xuân hết”, tuổi trẻ vút qua, có nghĩa “tôi cũng mất”. Cuộc đời còn gì có ý nghĩa khi trái tim hết nồng cháy và tâm hồn không còn rạo rực. Sống một cuộc đời như thế khác nào đã chết đâu. Phân tích khổ 2 bài “Vội vàng” mới thấy, tuổi trẻ đáng yêu biết bao! Mỗi người chỉ có một thời son trẻ, một đoạn đời ngắn để yêu, để tận hưởng mà thôi. Xuân của thiên nhiên, đất trời thì tuần hoàn, bất tận nhưng đời người, ai cũng chỉ có một đoạn thanh xuân để sống. Tuổi trẻ đã ngắn ngủi lại còn “chẳng hai lần thắm lại”, một đi không trở lại. Vũ trụ đất trời thì vĩnh hằng, vô tận còn đời người thì hạn hẹp, ngắn ngủi, kiếp nhân sinh vì thế mà trở nên nhỏ bé, đáng thương. Ai cũng mang trong mình ước muốn được trẻ mãi không già, khát khao được ở mãi với tuổi xanh, tuổi thiếu niên rực rỡ. Tiếng thơ của Xuân Diệu cất lên như một lời than thở tiếc nuối của một con người yêu đời đắm say. Thế mới thấy, lòng yêu đời và ham sống của thi sĩ mãnh liệt đến nhường nào và chính ông cũng đã từng thổ lộ rằng “Mười chín tuổi, hỡi những nàng má ngọc. Ríu rít chim, là tuổi ước mơ hoa! Hãi chàng trai kiều diễm mãi vui ca. Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở” Nỗi niềm vấn vương, luyến tiếc trong hồn thi sĩ phả vào cả cảnh vật để rồi chúng cũng nhuốm màu buồn u ám. Màu buồn u ám ấy là màu của chia ly, màu của sinh tử cách biệt. Xuân Diệu mang theo sự xúc động, dùng cả trái tim, tâm hồn để lắng nghe thật kỹ những bước đi nhẹ nhàng nhất của thời gian, tiếng “than thầm tiễn biệt” của sông núi, của cảnh vật. Hồn thơ của thi sĩ rất nhạy cảm với sự chảy trôi của dòng đời, thế nên mới có thể ngửi được “mùi”, nếm được “vị” của tháng năm, dòng chảy vô tận và của nỗi buồn buộc phải “chia phôi”. Phải nói rằng, đây là một cách cảm nhận rất thơ, rất tình về thời gian “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi. Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt” Như vậy, đoạn 2 của bài thơ “Vội vàng” đã cho thấy một trái tim khao khát yêu cùng tâm hồn rộng mở của Xuân Diệu. Khổ thơ nói riêng và cả tác phẩm nói chung chính là một kiệt tác nghệ thuật minh chứng cho danh xưng “ông hoàng thơ tình” và “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới của ông. Hy vọng rằng, qua bài phân tích đoạn 2 bài “Vội vàng”, bạn đọc đã hiểu sâu hơn về những ý thơ đầy thi vị, cảm xúc này, từ đó, đạt được kết quả thật cao trong quá trình học tập. Xem thêm Phân tích khổ cuối bài “Mùa xuân nho nhỏ” hay và chọn lọc Phân Tích, Văn Học - Phân tích khổ cuối bài “Mùa xuân nho nhỏ” hay và chọn lọc Phân tích bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” tác giả Phan Bội Châu Phân tích bài thơ “Nhớ rừng” tác giả Thế Lữ chọn lọc nhất Phân tích bài “Nhàn” tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm đặc sắc nhất Phân tích bài thơ “Qua đèo ngang” – Bà Huyện Thanh Quan Phân tích bài “Bánh trôi nước” Hồ Xuân Hương hay và ý nghĩa Phân tích khổ 4 “Bếp lửa” – Bằng Việt hay và chọn lọc
Tài liệu hướng dẫn phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng, gợi ý cách làm, lập dàn ý và tuyển chọn những bài văn mẫu hay phân tích nội dung 16 câu thơ giữa bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu đoạn 2.Hướng dẫn phân tích16 câu giữa bài Vội vàng1. Phân tích đề- Kiểu bài dạng bài phân tích một đoạn Vấn đề nghị luận nội dung, nghệ thuật 16 câu thơ giữa bài Vội Phạm vi dẫn chứng, tư liệu các căn cứ, hình ảnh, chi tiết,... thuộc phạm vi 16 câu thơ giữa bài thơ Vội vàng của Xuân Hệ thống luận điểmĐể phân tích đoạn 3 phần 2 từ “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua” cho đến “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…” của bài thơ Vội vàng ta có thể đưa ra 3 luận điểm như sauLuận điểm 1 8 câu đầu Nhận ra thời gian là một dòng chảy tuyến tính một đi không trở điểm 2 8 câu tiếp Nỗi lo sợ của nhân vật trữ tình khi những điều tươi đẹp đang dần lụi tàn mà không thể làm trái ngược lại quy luật của thời gian điểm 3 có thể có đúc kết cả đoạn 2 Làm cơ sở để Xuân Diệu nghĩ ra giải pháp ở phần sau Lời giục giã về thái độ sống “Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”.Dàn ý chi tiết phân tích 16 câu giữa Vội vàngMở bài- Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng- Dẫn dắt, giới thiệu 16 câu thơ giữa Nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang 16 câu thơ giữa, nhà thơ giải thích lí do phải sống vội bài phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng- Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở đương tới, nghĩa là xuân đương qua,Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất=> Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập tới - qua, non - già, hết - mất, rộng - chật, tuần hoàn - bất phục hoàn, vô hạn - hữu hạn - để khẳng định một chân lý - triết lý tuổi xuân một đi không trở lại, phải quý tuổi Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp tháng năm đều rớm vị chia phôiKhắp sông núi vẫn than thầm tiễn Cũng là gió, là chim... nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót, ngừng rao vì sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng làm nổi bật nghịch lý giữa mùa xuân - tuổi trẻ và thời gianCon gió xinh thì thào trong lá biếcPhải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thiPhải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?- Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuângChẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...=> Còn đang trong mùa xuân mà nhà thơ đã hình dung ra sự chia li của vũ trụ, sự rời xa của mùa xuân. Nỗi niềm nuối tiếc đã bật lên thành lời than và qua đó nhà thơ cũng gửi gắm lời nhắn nhủ tới muôn người muôn thế hệ rằng hãy sống hết mình vì tuổi trẻ, thời gian đời người là hữu hạn, một đi không trở bài- Những vần thơ của Xuân Diệu giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ.>>> Xem thêm Dàn ý phân tích bài thơ Vội vàngCác em vừa tham khảo hệ thống luận điểm và dàn ý ngắn gọn phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng, có thể đọc thêm một số bài văn mẫu dưới đây để mở rộng vốn từ ngữ và rút kinh nghiệm cách trình bày trước khi chắp bút viết mẫu tham khảo phân tích 16 câu giữa Vội vàngDưới đây là một số bài văn mẫu hay phân tích nội dung 16 câu thơ giữa bài Vội vàng Xuân Diệu mà Đọc Tài Liệu đã sưu tầm được muốn gửi tới các em tham tích 16 câu giữa Vội vàng bài số 1Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông đó là Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi gian trong thơ ca trung đại là thời gian "tuần hoàn" nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về vị trí xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn "tĩnh", lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm rất mới về thời gianXuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuổi trẻ một đi không trở lại. Thế nên ông luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Điều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới - qua”, “non - già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngàoLòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,Không cho dài thời trẻ của nhân gian,Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,Nếu đến nữa không phải rằng gặp trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;“Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Một loạt hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” - “chật”, “xuân tuần hoàn” - “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn” - “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời tháng năm đều rớm vị chia phôiKhắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệtCon gió xinh thì thào trong lá biếcPhải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thiPhải chăng sợ độ phai tàm sắp gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” đùa trong lá không phải là những âm thanh vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại lại phần thơ là dòng thơ tràn ngập cảm xúcChẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạnh thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mây khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Và trong sự bất lực, Xuân Diệu dường như tìm ra một cách giải quyết“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”Lời thơ như một lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia li sẽ đến mà lãng quên đi thực tại. “Mau đi thôi”, mau cố gắng trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt với 16 câu thơ nhưng dường như Xuân Diệu đã cho ta thấy một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ của tác giả. Ta cũng nhận ra mặc dù Xuân Diệu thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời nhưng qua đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho khảo Sơ đồ tư duy Vội vàngPhân tích 16 câu giữa Vội vàng bài số 2Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chố nước non lặng lẽ này”. Nhắc tới Xuân Diệu, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn, phong cách của ông – Vội vàng. Được rút ta từ tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là nỗi ám ảnh thời gian và lòng ham yêu, khát sống đến cuống quýt của Xuân Diệu. Nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ giải thích lí do phải sống vội sao Xuân Diệu lại vội vàng tiếc nuối mùa xuân ngay khi xuân còn đang thắm. Có lẽ vì thi sĩ có quan niệm rất mới về thời gianXuân đương tới nghĩa là xuân đương quaXuân còn non nghĩa là xuân sẽ giàMà xuân hết nghĩa là tôi cũng mấtLòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chậtKhông cho dài thời trẻ của nhân người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuổi trẻ một đi không trở lại. Thế nên Xuân Diệu luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Thi sĩ không chỉ tiếc mùa, tháng, ngày mà tiếc từng khoảng khắc, từng phút giây. Ở một bài thơ khác, nhà thơ cũng từng nóiTôi từ phút ấy trôi qua phút nàyĐiều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới - qua”, “non - già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn tăng sức thuyết phục mọi người tin vào chân lí mùa xuân tuổi trẻ là tuyến tính, Xuân Diệu đã chủ động đối thoại, tranh luận bác bỏ ý nghĩ cố hữu của mọi người là mùa xuân vẫn tuần hoànNói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoànNếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lạiVới Xuân Diệu, tuổi trẻ không thắm lại nên cũng không thể nói mùa xuân là tuần hoàn. Thế là Xuân Diệu tiếc mùa xuân mà thực chất là tiếc tuổi trẻ. Và đó là nguyên cớ sâu xa khiến thi sĩ vội vàng một nửa khi xuân mới bắt đầuCòn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trờiĐúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi, mong manh chỉ như bóng câu qua cửa sổ, như cái chớp mà thôi. Suy ngẫm về điều đó, day dứt về điều đó, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi mà mới mẻ trong thơ ca Việt“Với quan niệm một đi không trở lại và bằng tâm hồn rất đỗi nhạy cảm tới mức có thể nghe thấu cả sự mơ hầu” Thế Lữ, Xuân Diệu cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời tháng năm đều rớm vị chia phôiKhắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệtCon gió xinh thì thào trong lá biếcPhải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thiPhải chăng sợ độ phai tàn sắp gian thì rớm vị chia phôi, khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật không thể cưỡng lại quy luật tàn phai nghiệt ngã của tạo hóa. Chịu ảnh hưởng sâu sắc thuyết tương giao trong thơ tượng trưng, Xuân Diệu chẳng những đã đem đến những cảm nhận tinh tế rất mới, rất Tây, rất hiện đại về thời gianMùi tháng năm đều rớm vị chia gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi. Thơ trung đại, kể cả thơ mới cũng hiếm có câu thơ nào có cách cảm nhận như lại phần thơ thứ nhất - phần lí giải vì sao phải sống vội vàng là dòng thơ tràn ngập cảm xúcChẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hômĐến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mây khói, chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt còn in dấu trong dấu chấm cảm giữa dòng thơ và dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Không thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để níu giữ mãi hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã hối thúc mình và mọi người hãy sống vội vàng, hãy chạy đua cùng thời gian “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Lời giục giã hối thúc mang sắc điệu mạnh mẽ, quyết liệt bởi kiểu câu cầu khiến có sử dụng dấu chấm cảm giữa dòng. Có thể nói câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” rất điển hình, tiêu biểu cho hồn thơ vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám. Không chỉ ở “Vội vàng”, Xuân Diệu luôn hối thúc giục giã mọi người cần sống mau, sống vộiMau với chứ! Thời gian không đứng đợi– Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn– Mau với chứ! Vội vàng lên với chứEm, em ơi tình non sắp già rồi!“Mùa chưa ngả chiều hôm” là một cách kết hợp từ mới lạ, thú vị. Xuân Diệu đã dùng từ chỉ thời gian cuối ngày để chỉ thời điểm cuối mùa. “Mùa chưa ngả chiều hôm” là mùa chưa tàn, chưa úa, vì thế hãy vội vàng mau chóng tận hưởng hương sắc của thể thấy, Xuân Diệu có cách cảm nhận về thời gian khác lạ như vậy là nhờ vào “sự ý thức sâu xa về sự sống của cá thể”. Quan niệm mới mẻ ấy của Xuân Diệu đã khiến cho ta phải trân trọng từng phút giây của cuộc đời, tận hưởng một cuộc sống trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Qua đoạn thơ, ta đã thấy được niềm khát khao sống mãnh liệt, cháy bỏng của ông Hoàng thơ tình Việt Nam. Từ đó, chúng ta thêm trân trọng quan niệm nhân sinh, tích cực, tiến bộ. Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.-/-Trên đây là dàn ý chi tiết cùng một số bài văn mẫu phân tích 16 câu thơ giữa bài Vội vàng của Xuân Diệu do Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn dành cho các em tham khảo. Ngoài ra, các em có thể theo dõi thêm các bài văn mẫu 11 khác nữa bằng cách truy cập trực tiếp địa chỉ tích bài thơ Vội vàngPhân tích quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng
VnDoc xin giới thiệu tới bạn đọc Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2. Nội dung tài liệu đã được VnDoc tổng hợp chi tiết sẽ giúp các bạn đạt kết quả cao hơn trong học tập môn Ngữ Văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo. Lưu ý Đây là bài phân tích đoạn 2 bài thơ Vội vàng nên có thể chưa đủ ý toàn bộ tác phẩm này. Để theo dõi bài phân tích toàn bộ bài thơ, mời bạn tham khảo bài viết Phân tích bài Vội vàng của chúng tôi. Phân tích đoạn 2 bài thơ Vội vàng 1. Dàn ý Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 mẫu 1 2. Dàn ý Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 mẫu 2 3. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 1 4. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 2 5. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 3 6. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 4 7. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 5 8. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 6 9. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 7 10. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 8 11. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 9 Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 vừa được sưu tập và xin gửi tới bạn đọc để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết dưới đây của tổng hợp 10 mẫu bài phân tích và dàn ý bài phân tích. Mời bạn đọc cùng tham khảo chi tiết tại đây. 1. Dàn ý Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 mẫu 1 I. Mở bài giới thiệu về đoạn 2 bài thơ Vội vàng Ví dụ Trong tất cả các tác phẩm của Xuân Diệu, một tác phẩm thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch cảm xúc và triết lí sâu sắc là bài thơ Vội vàng. Bài thơ thể hiện niềm say mê cái đẹp của thiên nhiên, niềm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả trong cuộc sống. Bên cạnh niềm say mê thiên nhiên và cuộc sống thì tác giả còn thể hiện nỗi lo lắng của mình trước thời gian và cuộc đời, hình ảnh này được thể hiện rõ qua đoạn 2 của bài thơ. Chúng ta cùng đi tìm hiểu đoạn 2 của bài thơ để hiểu rõ về nổi lo lắng và băn khoăn của tác giả về cuộc sống và thời gian. Này đây ánh sáng chớp hàng mi Nếu như chúng ta nhận thấy được trước đây trong thơ ca trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người thì đến bài thơ Mới Xuân Diệu một lần nữa minh chứng cho chúng ta nhận thấy điều ngược lại, thiên nhiên hay cảnh vật cũng được so sánh với con người. Điều này cũng lại được thể hiện có những dáng vẻ và những nét đẹp của con người đó là “hàng mi”. Bên cạnh đó còn có những so sánh rất gợi tính nhục thể mà Xuân Diệu sử dụng đó là “cặp môi gần” tất cả dường như cũng rất gợi cảm giác của tình yêu. Có lẽ chính vì thế mà bức tranh xuân không chỉ có hương thơm và mang được màu sắc mà còn chất đầy bầu máu yêu thương khát khao của Xuân Diệu. Tất cả như cũng lại ngập tràn xuân sắc, rạo rực xuân tình, có thể nhận thấy được chính cái đẹp của cuộc đời được hình tượng qua tuổi trẻ và tình yêu. Với khổ thơ thứ hai này thì nhà thơ bộc lộ những quan niệm mới mẻ của về cái đẹp cái đẹp phải thấm hương đượm sắc, mang được biết bao những ngọt trong vị, đậm trong hương. Qủa thực chính với các nét mới của cái tôi thơ Mới chính là ở đó. Khi ta quay trở lại một chặng đường dài thơ ca về trước, thì ta nhận thấy được rằng các nhà thơ trung đại thường quan niệm về cuộc đời như một cuộc bể dâu, đó là một giấc mộng. Qủa thực đó cũng chính cuộc đời là cuộc bể dâu. Và còn cũng cùng là trong thời kì thơ Mới, nếu như tác giả Thế Lư tìm cái đẹp ở trên thiên thai với thi phẩm nổi tiếng Tiếng sáo thiên thai, nếu như Huy Cận tìm đến với cái đẹp ở xa trong không gian tìm đến cái đẹp của cổ điển. Còn với nhà thơ Chế Lan Viên tìm cái đẹp ở xưa trong thời gian mà giờ chỉ còn là một đống điêu tàn đổ nát thì Xuân Diệu – được biết đến là một chàng thi sĩ của xuân và tình của chúng ta, tất cả dường như cũng lại tìm cái đẹp ở ngay mảnh đất hiện tại này, cái đẹp ở chính ngay trần gian tươi đẹp, ngập tràn xuân sắc luôn mang được một sự rạo rực xuân tình, cái đẹp thắm hương sắc. Với Xuân Diệu thì lại “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới” bởi vì hạ giới là nơi đẹp chẳng khác gì chốn bồng lai. Nhưng để đánh giá một khổ thơ hay hay không thì luôn phải được kết tinh từ nội dung, nghệ thuật. Thực sự với khổ thơ thứ 2 trong bài thơ Vội Vàng này cũng đã làm mãn nhãn người đọc bằng những câu từ có hình, có vần điệu độc đáo. Sử dụng thơ tự do đan xen những câu văn dài hơi đem lại một sự sung sức như chính tấm lòng nồng nàn yêu đời mãnh liệt của Xuân Diệu. Tiếp theo đó chính là các cách điệp cấu trúc được dùng như Này đây…của… thì ta nhận thấy được đó cũng là sự khẳng định vô cùng nồng nhiệt và hăng say vẻ đẹp của mùa xuân trên mảnh đất thực tại nơi hạ giới. Về mặt ngôn ngữ giàu sức gợi, những từ láy đầy sức biểu cảm đã góp phần làm nên thành công của đoạn thơ. Ta như nhận thấy được hình ảnh thơ trẻ trung, tươi mới, táo bạo “ong bướm, tuần tháng mật, hay đó là hình ảnh hoa đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si, thần Vui,… tất cả cũng như đã góp phần cho thấy lòng yêu đời và ham sống bồng bột của Xuân Diệu. Thông qua bài thơ Vội Vàng và đặc biệt là khổ thơ thứ 2 ta nhận thấy được cũng chính với tấm lòng yêu đời, yêu sống mãnh liệt Xuân Diệu lúc này đây như đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, một mùa xuân vô cùng ngọt ngào, quyến rũ và thanh tân trẻ trung bởi cặp mắt xanh non. Không chỉ vậy mà thông qua tác phẩm cũng mới thấy được tài năng của nhà thơ với bộ y phục vô cùng tối tân của mình đã làm say đắm tâm hồn bao trái tim độc giả về mùa xuân vầ tuổi trẻ và về tình yêu. 7. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 5 Xuân Diệu là một nhà thơ Mới xuất sắc và đạt nhiều thành tựu của văn học Việt Nam. Một trong những bài thơ hay nhất của ông là bài thơ “Vội vàng” trích trong tập “Thơ thơ”. Thi phẩm mang đến cho đọc giả một bức tranh mùa xuân tươi mới và những cảm quan nhân sinh đầy mới mẻ. Đoạn 2 của bài thơ là đoạn văn thể hiện sâu sắc nhất về triết lý thời gian và cuộc đời. ” Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian.” Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ đã dựng lên bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, cùng với đó là tình yêu đến cháy bỏng của người thi sĩ thì đến khổ thơ thứ 2, Xuân Diệu lại thể hiện sự khắc khoải trước những bước đi của thời gian. Dường như, sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân ấy ý thức rất rõ sự chảy trôi đến mức vô tình của thời gian. Trước một mùa xuân với sắc hương rực rỡ quyến rũ mê hoặc ấy, tác giả cũng tận hưởng, cũng thưởng thức đấy thôi nhưng lòng vẫn lo sợ. Lỡ sợ rằng “xuân đương tới” rồi xuân cũng sẽ “đương qua”, xuân còn non không có nghĩa là xuân sẽ không già, bởi mỗi phút giây quá đi là đời người lại thêm ngắn lại. Thời gian chẳng thể níu giữ được mùa xuân, được tuổi trẻ, được thanh xuân, được đời người. Thời gian, tuổi trẻ, chả bao giờ có thể quay lại, bởi thế mà từng giấy đều phải trân trọng, phải vội vàng sống kẻo lỡ những thành xuân cuộc đời. Sự phối kết hợp những động, tính từ trái nghĩa “tới” – “qua”; ” già”- “non”, đã cho thấy cảm quan của thi nhân trước thời gian đầy tinh tế. Mỗi ngày, mỗi tháng năm qua đi tháng năm qua đi đời người thêm phần ngắn lại, khi mà ta không còn cảm nhận được mùa xuân nữa nghĩa là đời người không còn, sinh thể vĩnh viễn xa rời cuộc đời. Dù biết lòng người thì rộng, còn bao khát khao, bao hoài bão và những ước mơ đấy nhưng biết làm sao được khi thời gian càng rút ngắn, khi lượng trời hữu hạn, tuổi trẻ nhân gian đâu có chịu dài. Cảm nhận được sự vội vã ấy, nhà thơ càng bất an, càng thảng thốt, nghẹn ngào ” Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời” Đất trời rộng lớn, vũ trụ bao la, con người nhỏ bé, đời người hữu hạn. Phải chấp nhận sự thật dẫu biết rằng mùa xuân tuần hoàn đấy thôi nhưng tuổi trẻ đâu có tuần hoàn, đâu thể thắm lại những lần như thuở còn sung sức, còn dồi dào nhiệt huyết. Thế nên nỗi tiếc nuối, bâng khuâng rợn ngợp cả đất trời. Mùi chia li cũng bao trùm lấy cả sự vô tận của thời gian, khoảng không cách biệt của không gian “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.” Một lẽ thường của tạo hoá, một quy luật trần thế vạn vật đều không tránh khỏi. Vị thời gian rớm màu chia phôi, núi sông than thầm lời tiễn biệt, những cơn gió xuân vốn dạt dào đến thế cũng thều thào trong tiếng nghẹn. Tiếng vàng anh ru khúc nhạc tình cũng đành ngừng lại. Có lẽ chúng đều sợ thời gian, sợ những chia lìa, nước mắt, sợ những phai tàn, héo úa. “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa… Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm” Đến cuối cùng, chẳng bao giờ có thể làm được những điều mình ước muốn nếu cứ mãi đợi chờ, mãi hy vọng. Tiếng “ôi” thật nhẹ nhàng mà cũng thật tha thiết, vừa như hối tiếc lại vừa như thúc giục mọi người hãy hành động, hành động ngay bây giờ “Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm” Hãy nhanh nhanh chạy đua với vũ trụ, với thời gian nhân lúc “mùa chưa ngả chiều hôm”, nhân lúc màu lá phải chưa ngả, mùa chia ly chưa đến. Câu cầu khiến “Mau đi thôi” như một lời thức tỉnh những ai đang u mê ngập chìm trong sự chậm chạp, trễ nải và thơ ơ hãy sống nhanh, sống vội và sống có trách nhiệm. Đừng bỏ lỡ thành xuân bởi những tháng năm sống phí, sống hoài. Đoạn thơ không quá dài nhưng đã gửi gắm biết bao nhiêu những ân tình của người viết, tác giả đã mang đến cho độc giả, đặc biệt là những người trẻ tuổi một cảm quan mới mẻ về lẽ sống để học tập. Thơ Xuân Diệu phải chăng chính là “tiếng nói của một tâm hồn yêu đời” như thế. Đọc đoạn thơ, em thấy mình cần phải gắng sức mỗi ngày, tận dụng thời gian để sống, học tập và làm việc có ý nghĩa hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật đẹp, thật trọn vẹn. 8. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 6 “Vội vàng’’ là một trong những bài thơ đặc sắc nhất trong tập “Thơ thơ” 1938. Vượt qua dòng chảy thời gian hơn 60 năm rồi, mà những ý tưởng mới mẻ về thời gian, về tuổi xuân, về tình yêu đời, yêu cuộc sống- cùng với một giọng thơ nồng nhiệt đắm say vẫn lôi cuốn chúng ta một cách kì lạ. Đây là đoạn thơ trích trong phần 2 bài “Vội vàng” nói lên sự cảm nhận về thời gian của thi sĩ Xuân Diệu “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già. Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại! Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thẩm tiễn biệt …” Hai câu thơ đầu đoạn, với cách ngắt, nhịp 3/5, đọc lên ta cảm thấy cái nhún nhảy của mùa xuân, của thời gian “Xuân dương tới / nghĩa là xuân dương qua Xuân còn non / nghĩa là xuân sẽ già”. Các từ ngữ “đương tới” với “đương qua”, “còn non’” với “sẽ già” tương ứng, đối lập nhau, diễn tả mùa xuân và thời gian vận động không ngừng. Bước đi của mùa xuân, dòng chảy của thời gian là mải miết, vô tận. Trong hiện tại “đang tới” đã có màu li biệt “đương qua”. Chữ “đang” chuyển thành chữ “đương” mộ cách nói điệu đà, rất thơ. Trong dáng vẻ “còn non” hôm nay đã báo hiệu một tương lai “sẽ già”. Cách cảm nhận của thi sĩ về thời gian và mùa xuân là tinh tế và biểu cảm. Đó là một ý tưởng rất tiến bộ. Cũng chữ “non” và chữ “già” ấy, ông có những các cảm nhận rất độc đáo bằng một tâm hồn lãng mạng với cặp mắt xanh non. “Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt… … Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…” “Giục giã” Và ông cũng nhìn thấy sự vật phát triển và đổi thay không ngừng. Mùa xuân thời gian và sự sống thật vô cùng kì diệu “Mấy hôm trước còn hoa Mới thơm đây ngào ngạt Thoáng như một nghi ngờ Trái đã liền có thật”. “Quả sấu non trên cao” Bảy câu thơ tiếp theo nói lên nghịch lí giữa tuổi trẻ, đời người với thời gian và vũ trụ. Và đó cũng là bi kịch của con người, đời người. Khi “xuân hết”, tuổi trẻ đi qua “nghĩa là tôi cũng mất”. Mất ý vị cuộc đời. Tuổi trẻ đáng yêu biết bao! Mỗi người chỉ có một thời son trẻ. Cũng như thời gian trôi qua, tuổi trẻ một đi không trở lại “Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất”. “Lượng trời cứ chật” mà “lòng tôi rộng”, muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già. Quy luật của sự sống thật vô cùng nghiệt ngã “Không cho dài thời trẻ của nhân gian”. “Hảo hoa vô bách nhật – Nhân thọ vô bách tuế” Nguyễn Du. “Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi…” Tục ngữ. Một lần nữa thi sĩ lại đặt ngôn ngữ trong thế tương phản giữa “rộng” với “chật”, để nói lên cái nghịch lí của đời người. Cũng là một cách cảm nhận thời gian rất thực. “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian” Xuân của bốn mùa thu thì tuần hoàn xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận nhưng đời người chỉ có một thời thanh xuân. Tuổi trò “chẳng hai lần thắm lại”. Vũ trụ đất trời thì vĩnh hằng, vô hạn. trái lại đời người thì hữu hạn. Kiếp nhân sinh nhiều bi kịch. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, ai cùng muốn được sống mãi với tuổi xanh, tuổi hoa niên. Tiếng thơ cất lên như một lời than tiếc nuối … Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại! Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” “Tiếc cả đất trời vì không được trẻ mãi để tận hưởng mọi cái đẹp của thiên nhiên và cuộc đời. Đó là lòng yêu đời và ham sống, khao khát được sống hết mình với tuổi trẻ “Mười chín tuổi, hỡi những nàng má ngọc. Ríu rít chim, là tuổi ước mơ hoa! Hãi chàng trai kiều diễm mãi vui ca. Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở!” “Đẹp” – Xuân Diệu “Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” cùng như “Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở”, đó là bi kịch của người đời, xưa và nay. Có ham sống và yêu đời mới cảm nhận sâu sắc bi kịch ấy. Vì thế không được vung phí thời gian và tuổi trẻ. Hai câu thơ cuối dào dạt cảm xúc. Nhà thơ xúc động lắng nghe bước đi của thời gian, tiếng “than thầm tiễn biệt” của sông núi, của cảnh vật. Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời gian trôi đi qua “mùi”, “vị” của năm tháng “chia phôi” trong dòng chảy vô tận. Một cách cảm nhận thời gian rất thơ, rất tinh tế “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi. Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu Sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Một quan niệm nhản sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sông trong tình vêu – đó là những ý tưởng rất đẹp. 9. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 7 Nền văn học Việt Nam với điểm nhấn của trào lưu Thơ Mới luôn để lại dấu ấn với nhiều tuyệt tác đặc biệt. Trong số những đóng góp của các nhà thơ thì Xuân Diệu được xem là một cây đại thụ lão làng với bao tập thơ về tình yêu khiến độc giả say đắm, mê mẫn. Vội vàng là tác phẩm điển hình viết về nét đẹp nhân sinh, quan niệm sống tích cực từ thi nhân. Ta sẽ thấy rõ nét hơn về điều này ngay khi đến với khổ thứ hai của bài thơ. Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ vì yêu cái đẹp của thiên nhiên mà muốn đoạt quyền tạo hóa “tắt nắng”, “buộc gió” thì quan niệm vô cùng tích cực của thi nhân, sự lí giải đầy sâu sắc được trình bày ở khổ thơ thứ hai. Mở đầu cho khổ thứ hai của bài là hai câu thơ đọc vào như khiến ta vỡ lẽ khi thời gian cứ ngày một trôi qua nhanh chóng bởi cách ngắt nhịp 3/5. “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” Người ta như chìm đắm vào trong từng vần thơ bởi cách tả vô cùng tinh tế, táo bạo khi đọc thơ của Xuân Diệu. Sự trôi nhanh vội vã của thời gian để rồi tiếc nuối, lo sợ được nhà thơ phát hiện. “Đương tới” – “đương qua”, “còn non – sẽ già” là lúc nhà thơ gọi tên các trạng thái đối lập của thời gian. Trở về với những vần thơ trung đại thì sẽ thấy thời gian qua cách kể của các thi nhân xưa nhận ra sự nhỏ bé, chóng qua của thời gian nhưng người đọc sẽ hiếm hoi nhận thấy được lời than thở, buồn đau trong những câu thơ này. Tuy nhiên trong Thơ Mới cái nhìn có sự thay đổi hơn, trước sự ngắn ngủi của đời người, không còn là vô tận mà tuyến tính con người tỏ ra hoảng sợ, ý thức rõ ràng về điều này. Minh chứng trong câu thơ của Mãn Giác Thiền trong Cáo tật thị chúng “Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đào bách hoa khai” Trước không gian mênh mông, con người dường như thu mình lại khi thời gian chảy trôi nhanh, thấy bản thân trở nên bé nhỏ. Mùa xuân hôm nay đẹp lung linh nhưng rồi mai đây nó cũng đến lúc phai tàn, già cỗi đi cùng thời gian là điều không ai níu giữ lại được. “Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá Kỷ niệm trong tôi Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn” Khi xuân đi qua thì tuổi xuân của con người cũng trôi theo trong tiếc nuối. Ở đây nhà thơ cảm thấy chẳng còn gì, chẳng thể níu kéo mọi thứ khi thời gian rồi cũng mai một tất cả, kể cả tuổi thanh xuân “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất … Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…” Nhà thơ muốn nhấn mạnh về tầm quan trọng của mùa xuân, tuổi trẻ rồi sẽ chảy trôi cùng thời gian thấy được qua danh từ “xuân” gợi nhắc đi lại nhiều trong đoạn thơ, . Khi tuổi trẻ đi qua thì “tôi” rồi cũng trở nên vô nghĩa, trống rỗng, bởi lúc này tình yêu đã không còn. “Lòng tôi” và “lượng trời” là sự tương phản của hai thế cực bật lên sự hữu hạn, vô hạn giữa đời người và đất trời. Từ đó để thấy rằng vòng xoáy của thời gian tiếp nối trong sự vận động không ngừng của thời gian thì vạn vật, con người rồi sẽ phải thay đổi. Sinh lão bệnh tử là lẽ thường tình, là vòng tròn tuần hoàn lặp lại không ngừng. Niềm tiếc nuối của tác giả trước sự chảy trôi của thời gian tuyến tính một đi không trở lại được thấy rõ hơn trong lời thơ. Bước đi của mùa xuân cũng là bước đi của thời gian, của đời người. Nhìn mọi thứ đều nhuốm màu của lo âu, hốt hoảng nên thi sĩ muốn níu giữ tuổi trẻ. Do đó mà ta nhận thấy có sự thay đổi, có sự đa dạng trong cách diễn đạt từ câu định nghĩa, khẳng định về mùa xuân và tuổi trẻ, tinh tế một chút sẽ thấy được đó là lời cảm nhận về sự có mặt, hiện hữu rồi tàn phải của tuổi xuân, tiếng than đầy nuối tiếc từ đó lại cất lên da diết. Tuy nhiên ở đây có một điều rất hay khi tinh tế nhận thấy trong lời thơ của Xuân Diệu đó là tuổi xuân, tuổi trẻ trôi qua ông không nuối tiếc bằng việc không thể được tận hưởng mọi hương sắc của đất trời. Vài dòng thơ ngắn ngủi nhưng đầy triết lí đã cho thấy một tâm hồn thơ lãng mạn, cá tính của Xuân Diệu. Vội vàng là tác phẩm tuyệt đỉnh đi theo cùng năm tháng. 10. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 8 Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ. Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian “tuần hoàn” nghĩa là thời gian được hình dung như 1 vòng tròn liên tục tái diễn, hết 1 vòng lại quay về vị trí xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn “tĩnh”, lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm rất mới về thời gian Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất. Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại. Thế nên ông luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Điều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại. Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; “Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Một loạt hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn” – “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc đời. Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”. Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian. Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa. Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy. Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại được. Khép lại phần thơ là dòng thơ tràn ngập cảm xúc Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa… Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Và trong sự bất lực, Xuân Diệu dường như tìm ra một cách giải quyết. “Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm” Lời thơ như một lời giục giã, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ đến mà lãng quên đi thực tại. “Mau đi thôi”, mau cố gắng trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta. Chỉ với 16 câu thơ nhưng dường như Xuân Diệu đã cho ta thấy một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ của tác giả. Ta cũng nhận ra mặc dù Xuân Diệu thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc đời nhưng qua đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời. 11. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 9 Xuân Diệu nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới, cái mới của Xuân Diệu có lẽ không chỉ đến từ cảm xúc, mà còn đến từ những quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ. Nếu ở khổ thơ đầu tiên là những quan niệm cách tân về cuộc sống thì đến khổ thơ thứ hai này là cách nhìn thời gian đầy mới mẻ, hiện đại của cái tôi thơ Mới. “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời”. Chậm lại một chút, ta sẽ nhận ra nét mới trong ý thơ của Xuân Diệu. Nếu như người xưa quan niệm, thời gian tuần hoàn, cứ lặp lại trong vòng chảy vô tận của tạo hóa, vậy nên họ luôn cảm thấy an nhiên, tự tại “nhất nhật thanh nhàn nhất nhật tâm” thì đến Xuân Diệu, thời gian mới trở thành một nỗi ám ảnh. Ông quan niệm thời gian tuyến tính, một đi không trở lại, vậy nên nhìn thấy xuân đương tới trên vạn vật muôn nơi, đang xem sắc xuân phủ lên vạn vật một màu xanh non tràn trề sức sống thì cũng thấy ngay trong nhịp bước của thời gian, trong cả nhịp bước ngỡ ngàng của nàng xuân, rằng nàng vừa hiện hữu mà cũng sẽ nhanh chóng biến mất khỏi đất trời. Mùa xuân là mùa nảy nở, của sinh sôi và sáng tạo nghệ thuật. Mùa xuân là tuổi trẻ của đất trời, còn mùa xuân của đời người là tuổi trẻ. Vậy nên mùa xuân hết, nghĩa là khi tuổi trẻ qua đi trên màu sương mái tóc con người, cũng là lúc cái tôi thi nhân ngập tràn lo âu, và chán nản. Lòng thi nhân tha thiết với xuân hứng, xuân tình, xuân nảy nở trong tâm hồn con người, và bất diệt trên từng nụ cười ánh mắt, nhưng tiếc thay lượng trời cứ chật, “không cho dài thời trẻ của nhân gian”. Chính vì thế sự luân hồi vẫn tuần hoàn chảy trôi, nhưng tôi của mỗi phút mỗi giây đã đổi khác rồi, chẳng còn tôi mãi, nên “bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Đó là nỗi tiếng nuối của một nhà thơ tha thiết với tuổi trẻ và mùa xuân, tha thiết với tình yêu và sự sống. Nhưng nổi bật nhất, trong những câu thơ trên vẫn là quan niệm thời gian cực kì mới mẻ, hiện đại của cái tôi thơ Mới. “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa” Mùa xuân của đất trời có thể còn mãi, tuần hoàn trong nhịp chảy trôi của vĩnh hằng nhưng mùa xuân của đời người, tuổi trẻ ấy chẳng hai lần thắm nên tưởng như nỗi buồn của thi nhân cũng đã thấm thía vào từng chảy vật, để cảnh vật cũng chở nặng một điệu buồn, hay là bởi chính những cảnh vật kia cũng thấy cái chảy trôi của thời gian mà nén một tiếng thở dài buồn rượi. Ở khổ thơ này, Xuân Diệu thực sự sử dụng rất đắt thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mà nhà thơ tiếp thu được từ phương Tây. Mùi tháng năm là hương vị vô hình, nhưng trong câu thơ lại có thể cảm nhận được dư vị của nó, ấy thế nhưng cái dư vị ấy là lại là dư vị được cảm nhận từ trái tim chứ không phải dư vị có thể dùng ngũ giác quan để cảm thử. Nỗi buồn bỏ vào mênh mang những lặng câm của không gian, nên nghe thấy cả sông núi than thầm tiễn biệt, con gió xinh reo vui trên những cành cây ngày nào, giờ thì thào trong tiếc nuối vì nỗi phải lìa cành, để trở về với đất mẹ. Tất cả đều cho thấy nỗi sợ về sự chảy trôi không ngừng nghỉ của thời gian. Nó đánh tung vào trong cả lòng người và trong tâm hồn muôn vật những khoảng trống bất tận của nỗi buồn và dư vị tiếc nuối. Khổ thơ hai trong Vội vàng đã thể hiện một quan niệm vô cùng mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian, nó đồng thời cũng là bản lề để mở ra những lời giục giã sống, tận hưởng và cống hiến cho đoạn thơ kế tiếp. 12. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 10 Xuân Diệu là một trong những tác giả tiêu biểu trong phong trào thơ mới tại Việt Nam. Thơ của ông luôn dạt dào tình cảm, khiến độc giả và các nhà đánh giá hết lời ngợi khen. Ông để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm tuyệt vời, trong đó phải kể đến bài thơ “Vội vàng” trí từ tập “Thơ thơ”. Tác phẩm viết về nét đẹp nhân sinh, quan niệm sống tích cực từ thi nhân. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn về điều này khi đến với khổ thứ 2 của bài thơ. Ở khổ thơ thứ nhất của Vội vàng, Xuân Diệu cho độc giả thấy được bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với cỏ hoa, ong bướm, đồng nội, yến anh và một tình yêu cháy bỏng. Nhưng đến khổ thứ 2, người đọc sẽ cảm nhận thấy tác giả thể hiện sự khắc khoải khi thời gian vẫn trôi qua một cách nhanh chóng. “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” Độc giả như chìm đắm trong từng vần thơ tinh tế của Xuân Diệu, nhận ra rằng thời gian trôi qua vội vã để lại sự tiếc nuối và lo sợ. Tác giả sử dụng các cặp từ “đương tới” – “đương qua”, “còn non” – sẽ già” để biểu thị trạng thái đối lập của thời gian. Trước cảnh xuân tuyệt vời với cỏ hoa, ong bướm, hương sắc quyến rũ của mùa xuân, tác giả cũng tận hưởng cùng thưởng thức đấy thôi, nhưng trong lòng vẫn có một nỗi lo sợ. Sợ rằng mọi thứ sẽ bị thời gian lấy đi, không thể níu giữ được mùa xuân, thanh xuân, tuổi trẻ và cả đời người. Chúng không thể nào quay lại, vậy nên con người cần phải trân trọng từng giây từng phút của cuộc đời, phải vội vàng nếu không sẽ lỡ mất thanh xuân. “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian.” Mỗi ngày, mỗi tháng trôi qua đời người thêm phần ngắn lại, và khi không còn cảm nhận được mà xuân cũng là lúc đời người không còn nữa, vĩnh viễn rời xa cuộc đời. Dù biết lòng người rộng lớn, còn bao nhiêu ước mơ, hoài bão, sự khát sao ở đấy, nhưng biết làm khi mà lượng thời gian dành cho mình là hữu hạn, không thể kéo dài thời trẻ của dân gian. Cảm nhận được sự thật về thời gian vội vã, nhà thơ càng bất an lo lắng, nghẹn ngào “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” Vũ trụ thì bao la, đất trời rộng lớn nhưng con người thì bé nhỏ, đời người hữu hạn làm sao có thể thay đổi được thời gian. Tác giả biết mùa xuân thì vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ thì không, thanh xuân đâu thể thắm lại, đâu còn dồi dào nhiệt huyết, sung sức như ngày còn trẻ. Nỗi bâng khuâng, tiếc nuối ấy như ngợp cả trời đất. Để rồi sự chi ly bao trùm lên cả khoảng không của không gian và sự vô tận của thời gian “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.” Đó là quy luật bất biến của tạo hóa mà ai cũng phải nuối tiếc. Vị thời gian rớm màu chia phôi, khắp núi sông thầm than lên lời tiễn biệt, cơn gió của mùa xuân vốn nhẹ nhà dào dạt cũng phải thều thào trong tiếng nghẹn, khúc hát rộn ràng của những chú chim cũng đành phải ngừng lại. Có lẽ tất cả chúng đều sợ cái gọi là “Thời gian”, sợ nước mắt, sợ chia ly, sợ những héo úa phai tàn theo năm tháng. “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa… Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm Đến cuối cùng, nếu cứ mãi chờ đợi, mãi hy vọng thì sẽ chẳng bao giờ làm được điều mình mơ ước. Từ cảm thán “ôi” phát lên một cách nhẹ nhàng nhưng cũng thật tha thiết, vừa thể hiện sự nuối tiếc nhưng đồng thời cũng như thúc giục mọi người phải hành động ngay. Hãy nhanh chạy đua với thời gian, với vũ trụ nhân lúc “mùa chưa ngả chiều hôm” là lúc mà lá chưa ngả, mùa chia ly chưa đến. “Mau đi thôi!” chính là lời thức tỉnh những ai còn đang mơ hồ, chậm chạp hãy sống nhanh, sống vội vàng và sống có trách nhiệm để không bỏ lỡ những năm tháng thanh xuân tươi đẹp, rực rỡ nhất. Đoạn thơ không quá dài, nhưng qua bút pháp của Xuân Diệu đã cho chúng ta thấy một lẽ sống thật đẹp. Nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là những người trẻ cần phải suy nghĩ tích cực, cố gắn sức mỗi ngày, không ngừng học tập và làm việc có ý nghĩa để sống một cuộc đời trọn vẹn, không phải hối tiếc về bất cứ điều gì. Để có kết quả học tập lớp 11 tốt nhất, VnDoc mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây, cũng như các tài liệu được tải nhiều nhất của chúng tôi Soạn văn 11 bài Vội vàng Vội vàng Soạn bài lớp 11 Vội vàng Giáo án bài Vội vàng Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 1 Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các bạn Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài học rồi đúng không ạ? Bài viết được tổng hợp gồm có dàn ý và 10 bài văn mẫu phân tích bài thơ Vôi vàng đoạn 2. Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng tham khảo thêm một số tài liệu học tập các môn tại các mục Giải bài tập Lịch Sử 11, Giải bài tập Địa Lí 11, Học tốt Ngữ văn 11, Tài liệu học tập lớp 11 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải. Để giúp bạn đọc có thể thuận tiện hơn trong việc chia sẻ trao đổi kinh nghiệm tài liệu học tập cũng như giảng dậy, mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 để có thêm tài liệu học tập nhé ▪️ chia sẻ tài liệu môn Toán các lớp 1 , 2 , 3 , 4 , 5 , 6 , 7 , 8 , 9 , 10, 11, 12 và ôn thi THPT Quốc gia, phục vụ tốt nhất cho các em học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh trong quá trình học tập – giảng dạy. ▪️ có trách nhiệm cung cấp đến bạn đọc những tài liệu và bài viết tốt nhất, cập nhật thường xuyên, kiểm định chất lượng nội dung kỹ càng trước khi đăng tải. ▪️ Bạn đọc không được sử dụng những tài nguyên trang web với mục đích trục lợi. ▪️ Tất cả các bài viết trên website này đều do chúng tôi biên soạn và tổng hợp. Hãy ghi nguồn website khi copy bài viết.
Phân Tích Vội Vàng Khổ 2 ❤ ️ ️ 10 Bài Cảm Nhận Đoạn 2 Hay ✅ Đây Là Khổ Thơ Đắc Sắc Với Nhiều Hình Ảnh Thơ Nổi Bậc Trong Tác Phẩm Của Xuân Diệu . Tóm tắt nội dung bài viếtPhân Tích Đoạn 2 Vội Vàng NgắnPhân Tích Bài Thơ Vội Vàng Đoạn 2 HayCảm Nhận Của Em Về Đoạn Thơ Thứ 2 Trong Bài Vội VàngVăn Mẫu Phân Tích Vội Vàng Khổ 2Phân Tích Vội Vàng 2 Khổ ĐầuDàn Ý Phân Tích Vội Vàng Khổ 2Phân Tích Khổ 2 Vội Vàng Phân Tích Đoạn 2 Vội Vàng Ngắn gọn và hay nhất là một nội dung hữu dụng để những em học viên tìm hiểu thêm và học tập . Xuân Diệu nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, thơ của ông thể hiện tình cảm ham muốn thưởng thức trọn vẹn tuổi trẻ, trân trọng khoảng thời gian quý báu của tuổi trẻ chỉ đến một lần trong đời. Bài thơ Vội vàng thể hiện tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, dạt dào của tác giả, khát vọng sống nhanh nhưng có ý nghĩa. Ngay từ nhan đề bài thơ đã biểu lộ rõ tư tưởng của tác giả, “ vội vàng ” trước dòng chảy của thời hạn. Ông sống hối hả và muốn ôm gọn vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên vào lòng, triển khai những điều phi lí như tắt nắng, buộc gió chỉ để níu kéo vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên ở lại .Thời gian trôi là dòng chảy không ngừng, không có ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông, thời hạn tuổi trẻ trôi qua là quy luật của đời sống. Khổ thơ tiên phong đã bộc lộ khát vọng sống mãnh liệt, sống vội vàng để tận thưởng trọn vẹn vẻ đẹp từ vạn vật thiên nhiên . “Của ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây là cửa cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình si” Khổ thơ thứ 2 tác giả đã phô bày những vẻ đẹp tuyệt vời nhất của vạn vật thiên nhiên đó là “ ong bướm ”, “ yến anh ” hình ảnh ong bướm trong tuần tháng mật đó là quãng thời hạn tươi đẹp nhất, “ yến anh ” gắn bó với nhau không xa rời, đó chính là tình yêu đôi lứa ngọt ngào, niềm hạnh phúc .Tác giả cảm nhận vạn vật thiên nhiên đang trong quá trình tràn trề sức sống, tươi đẹp nhất. Nếu như khổ thơ đầu tác giả muốn chiêm ngưỡng và thưởng thức trọn vẹn vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên nên phải sống nhanh, vội vã thì trong khổ thơ hai của bài thơ đã lý giải vì sao ông có tâm lý như vậy . “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương quaXuân còn non nghĩa là xuân sẽ giàMà xuân hết nghĩa là tôi cũng mấtLòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chậtKhông cho dài thời trẻ của nhân gian.” Mùa xuân của đất trời cứ tuần hoàn, còn đời người ngắn ngủi, cuộc sống của con người không được cho phép ta sống mãi để chiêm ngưỡng và thưởng thức mùa xuân. Vậy nên cũng dễ hiểu khi Xuân Diệu lo âu khi thời hạn trôi đi, trong thơ của ông mọi vật khởi đầu có sự tàn phai theo thời hạn . “Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa” Thời gian li biệt, vạn vật thiên nhiên cũng như vậy, cơn gió hờn dỗi vì phải rời xa lá biếc, chim không còn hót véo von rộn ràng mà trở nên im bặt. Tất cả đều không hề chống lại quy luật của tạo hóa, thời hạn trôi mọi vật phải tàn phai. Đó đều là những cảm nhận riêng tinh xảo, mới mẻ và lạ mắt về thời hạn của tác giả .Sau khi hiểu ra rằng con người không hề tắt nắng, buộc gió níu giữ vạn vật thiên nhiên ở lại, nhà thơ đã hối thúc mọi người phải sống vội vàng, khẩn trương “ Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm. Đó là lời lôi kéo can đảm và mạnh mẽ của Xuân Diệu hãy sống hết mình đam mê cháy bỏng cho từng phút giây của đời sống .Thời gian cứ lặng lẽ trôi, con người hữu hạn trong vòng tuần hoàn vô hạn của đời sống, nhà thơ muốn nhắn nhủ đến mọi người hãy sống vội vàng, đam mê cháy bỏng, sống hết mình để tận thưởng cuộc sống này thật toàn vẹn và ý nghĩa .Cùng với Phân Tích Vội Vàng Khổ 2, san sẻ cùng bạn 💔 Cảm Nhận Về Bài Thơ Vội Vàng 💔 Phân Tích Bài Thơ Vội Vàng Đoạn 2 Hay Phân Tích Bài Thơ Vội Vàng Đoạn 2 Hay với những hình ảnh điển hình nổi bật nhất trong thi phẩm nổi tiếng của nhà thơ Xuân Diệu .Trong “ Thi nhân Nước Ta ”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng chứng minh và khẳng định “ Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chỗ nước non lặng lẽ này ”. Nhắc tới Xuân Diệu, ta không hề không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn, phong thái của ông – Vội vàng .Được rút ta từ tập “ Thơ thơ ”, “ Vội vàng ” là nỗi ám ảnh thời hạn và lòng ham yêu, khát sống đến tất tả của Xuân Diệu. Nếu phần tiên phong của bài thơ là mong ước táo bạo cùng vẻ đẹp độc lạ của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ lý giải lí do phải sống vội vàng .Tại sao Xuân Diệu lại vội vàng hụt hẫng mùa xuân ngay khi xuân còn đang thắm. Có lẽ vì thi sĩ có ý niệm rất mới về thời hạn Xuân đương tới nghĩa là xuân đương quaXuân còn non nghĩa là xuân sẽ giàMà xuân hết nghĩa là tôi cũng mấtLòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chậtKhông cho dài thời trẻ của nhân gian. Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời hạn bởi họ ý niệm thời hạn là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại ý niệm thời hạn, mùa xuân, tuổi trẻ một đi không trở lại .Thế nên Xuân Diệu luôn hoảng loạn lo âu khi thời hạn trôi mau. Thi sĩ không chỉ tiếc mùa, tháng, ngày mà tiếc từng khoảng chừng khắc, từng phút giây. Ở một bài thơ khác, nhà thơ cũng từng nói Tôi từ phút ấy trôi qua phút nàyĐiều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời hạn như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ trái chiều “ tới – qua ”, “ non – già ” đã cho thấy sự cảm nhận tinh xảo của nhà thơ trước bước tiến của thời hạn .Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự tái diễn liên tục điệp ngữ “ nghĩa là ”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc chắn cứng ngắc một thực sự hiển nhiên không gì phủ nhận Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất .Đối diện với thực sự hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi hoảng thốt. Liên tiếp những dấu phẩy được kêu gọi tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào .Để tăng sức thuyết phục mọi người tin vào chân lí mùa xuân tuổi trẻ là tuyến tính, Xuân Diệu đã dữ thế chủ động đối thoại, tranh luận bác bỏ ý nghĩ cố hữu của mọi người là mùa xuân vẫn tuần hoàn Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoànNếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Với Xuân Diệu, tuổi trẻ không thắm lại nên cũng không hề nói mùa xuân là tuần hoàn. Thế là Xuân Diệu tiếc mùa xuân mà thực ra là tiếc tuổi trẻ. Và đó là nguyên cớ xâu xa khiến thi sĩ vội vàng 50% khi xuân mới khởi đầu Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãiNên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời Đúng vậy, giữa cái bát ngát của thiên hà, vô cùng, vô tận của thời hạn, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi, mong manh chỉ như bóng câu qua hành lang cửa số, như cái chớp mà thôi. Suy ngẫm về điều đó, day dứt về điều đó, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi mà mới mẻ và lạ mắt trong thơ ca Việt .“ Với ý niệm một đi không trở lại và bằng tâm hồn rất đỗi nhạy cảm tới cả hoàn toàn có thể nghe thấu cả sự mơ hồ ” Thế Lữ , Xuân Diệu cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang bí mật diễn ra trong lòng ngoài hành tinh trên cả hai trục khoảng trống và thời hạn . Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôiKhắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệtCon gió xinh thì thào trong lá biếcPhải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thiPhải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa. Thời gian thì rớm vị chia lìa, khắp khoảng trống đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh sung sướng, sôi động của vạn vật thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời hạn .Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hại hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật không hề cưỡng lại quy luật tàn phai nghiệt ngã của tạo hóa .Chịu ảnh hưởng tác động thâm thúy thuyết tương giao trong tượng trưng Phá, Xuân Diệu chẳng những đã đem đến những cảm nhận tinh xảo rất mới, rất Tây, rất văn minh về thời hạn Mùi tháng năm đều rớm vị li biệt .Thời gian vốn vô hình dung, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị li biệt. Thơ trung đại, kể cả thơ mới cũng hiếm có câu thơ nào có cách cảm nhận như vậy .Khép lại phần thơ thứ nhất – phần lí giải vì sao phải sống vội vàng là dòng thơ tràn ngập xúc cảm Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng khi nào hoàn toàn có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Khát vọng cháy bỏng, mong ước táo bạo đã tan thành mấy khói. chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt còn in dấu trong dấu chấm cảm giữa dòng thơ và dấu chấm lửng cuối dòng thơ .Không thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để níu giữ mãi hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã hối thúc mình và mọi người hãy sống vội vàng, hãy chạy đua cùng thời hạn “ Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm. ” Lời giục giã hối thúc mang sắc điệu can đảm và mạnh mẽ, kinh khủng bởi kiểu câu cầu khiến có sử dụng dấu chấm cảm giữa dòng .Có thể nói câu thơ “ Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm ” rất nổi bật, tiêu biểu vượt trội cho hồn thơ vội vàng nôn nả của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Không chỉ ở “ Vội vàng ”, Xuân Diệu luôn hối thúc giục giã mọi người cần sống mau, sống vội Mau với chứ ! Thời gian không đứng đợi– Gấp đi em, anh rất sợ ngày maiĐời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn– Mau với chứ ! Vội vàng lên với chứEm, em ơi tình non sắp già rồi !“ Mùa chưa ngả chiều hôm ” là một cách tích hợp từ mới lạ, mê hoặc. Xuân Diệu đã dùng từ chỉ thời hạn cuối ngày để chỉ thời gian cuối mùa. “ Mùa chưa ngả chiều hôm ” là mùa chưa tàn, chưa úa, cho nên vì thế hãy vội vàng mau chóng tận thưởng hương sắc của nó .Có thể thấy, Xuân Diệu có cách cảm nhận về thời hạn khác lạ như vậy là nhờ vào “ sự ý thức sâu xa về sự sống của thành viên ”. Quan niệm mới lạ ấy của Xuân Diệu đã khiến cho ta phải trâng trọng từng phút giây của cuộc sống, tận thưởng một đời sống toàn vẹn và đầy ý nghĩa .Quan đoạn thơ, ta đã thấy được niềm khát khao sống mãnh liệt, cháy bỏng của ông Hoàng thơ tình Việt nam. Từ đó, tất cả chúng ta thêm trân trọng quan niệm nhân sinh, tích cực, văn minh .Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói “ Đây là lời nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một ý niệm nhân sinh mới lạ chưa thấy trong thơ ca truyền thống lịch sử ” .Ngoài Phân Tích Vội Vàng Khổ 2, tại còn có 🦋 Phân Tích Khổ 1 Đây Thôn Vĩ Dạ 🦋 hay và ý nghĩa ! Cảm Nhận Của Em Về Đoạn Thơ Thứ 2 Trong Bài Vội Vàng Cảm Nhận Của Em Về Đoạn Thơ Thứ 2 Trong Bài Vội Vàng với những ý nghĩa triết lý về cuộc sống của một hồn thơ thiết tha rạo rực .Thơ Mới là thời kì giải phóng cái tôi, để ý niệm phi ngã trong văn chương trung đại không còn là chiếc cũi giam chật hẹp gò ép người nghệ sĩ, ở thời kì này người nghệ sĩ như cánh chim được tự do tung bay, tháo túi sổ lồng. trong số ấy thì Xuân Diệu với bộ ý phục tối tân của mình đã trở thành đại biểu tiêu biểu vượt trội nhất .Là nhà thơ Mới nhất trong những nhà thơ Mới. Và “ Vội Vàng ” chính là một trong những bài thơ rực rỡ nhất về phong thái nghệ thuật và thẩm mỹ của Xuân Diệu, một hồn thơ thiết tha rạo rực do dự như Hoài Thanh đã nhận xét .Đặc biệt khổ thơ thứ 2 từ “ của ong bướm … hoài xuân ” đã thể hiện những ý niệm thẩm mĩ và nhân sinh mới mẻ và lạ mắt của Xuân Diệu về cuộc sống .Nếu ở khổ thơ thứ nhất, Xuân Diệu ước ao thâu nhận, tắt nắng, buộc gió, muốn đoạt quyền năng tối thượng của tạo họa thì đến khổ thơ thứ 2 này, nhà thơ đã lí giải cho người đọc lí do vì sao ông hụt hẫng khi muốn tắt nắng, buộc gió “Của ong bướm này đây tuần tháng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng mi,Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửaTháng Giêng ngon như một cặp môi gầnTôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửaTôi không chờ nắng hạ mới ngoài xuân.” Bức tranh vạn vật thiên nhiên, cảnh vật mùa xuân thật tươi đẹp, ngọt ngào xuân sắc, rạo rực xuân tình .Bức tranh mùa xuân hiện lên trong sáng, tràn trề sức sống, thanh tân, tươi tắn, ngập tràn ánh sáng niềm vui, có sắc màu sức sống mơn mởn, non tơ thanh khiết của những hoa đồng nội xanh tươi, của cành tơ phơ phất. không chỉ vậy, âm thanh trong bức tranh vạn vật thiên nhiên đang xuân ấy còn rộn ràng, ríu rít trong tiếng chim hót vui mừng .Ngọt ngào trong vị ngọt của “ ong bướm này đây tuần tháng mật ”, ngào ngạt hương của mây trời, cỏ cây hoa lá. Tất cả những nét vẽ của Xuân Diệu đã tạo nên vườn xuân đắm say, điệu đàng được nhìn bằng cặp mắt xanh non và rờn biếc của chàng trai trẻ như lần tiên phong đến quốc tế này .Và đây mới chính là cái tôi Xuân Diệu, một cái tôi tha thiết, rạo rực ái ân, rạo rực những yêu thương mãnh liệt, mật ngọt của tình yêu tuổi trẻ, vậy nên chỉ có Xuân Diệu mới có những so sánh rực rỡ và đầy tính nhục thể như vậy “Tháng Giêng ngon như một cặp môi đây ánh sáng chớp hàng mi.” Nếu trước kia trong thơ ca trung đại lấy vạn vật thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người thì đến thơ Mới Xuân Diệu một lần nữa dẫn chứng cho ta thấy điều ngược lại .Thiên nhiên, cảnh vật cũng được so sánh với con người, những hình dáng và những nét đẹp của con người “ hàng mi ”, rồi những so sánh rất gợi tính nhục thể “ cặp môi gần ” rất gợi cảm giác của tình yêu .Vì thế, bức tranh xuân không chỉ có hương thơm và sắc tố mà còn chất đầy bầu máu yêu thương khát khao của Xuân Diệu, ngập tràn xuân sắc, rạo rực xuân tình, cái đẹp của cuộc sống được hình tượng qua tuổi trẻ và tình yêu .Để qua đấy nhà thơ thể hiện những ý niệm mới mẻ và lạ mắt của về cái đẹp cái đẹp phải thấm hương đượm sắc, ngọt trong vị, đậm trong hương. Nét mới của cái tôi thơ Mới chính là ở đó .Quay trở lại một chặng đường dài thơ ca về trước, thì ta thấy rằng những nhà thơ trung đại thường ý niệm cuộc sống như một cuộc bể dâu, một giấc mộng kê thôi hay “ Trải qua bao cuộc bể dâu – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ”, đó chính cuộc sống là cuộc bể dâu .Còn cũng cùng là trong thời kì thơ Mới, nếu Thế Lư tìm cái đẹp ở trên thiên thai với “ Tiếng sáo thiên thai ” nếu như Huy Cận tìm đến với cái đẹp ở xa trong khoảng trống, cái đẹp của cổ xưa ; Chế Lan Viên tìm cái đẹp ở xưa trong thời hạn mà giờ chỉ còn là một đống điêu tàn đổ nát .Thì Xuân Diệu-chàng thi sĩ của xuân và tình của tất cả chúng ta, lại tìm cái đẹp ở ngay mảnh đất hiện tại này, ngay trần gian tươi đẹp, ngập tràn xuân sắc, rạo rực xuân tình, cái đẹp thắm hương, đượm sắc .Như vậy, “ với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi một giấc mộng rất xưa, giấc mộng lên tiên thì Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới ”. Với khổ hai này, “ Xuân Diệu đã xây lầu thơ trên đất của một tấm lòng trần ” ân ái, đa tình vậy nên ông mới tò mò ra được một thiên đường của vườn đời-vườn xuân ngay giữa thực tại này đó ư ?Nhưng một khổ thơ hay, không ngoại lệ, cái để làm quen là nhan sắc ” hình thức nghệ thuật và thẩm mỹ ”. với bộ y phục tối tân của mình, Xuân Diệu đã làm mãn nhãn người đọc. Thể thơ tự do xen kẽ những câu văn dài hơi sung sức như chính tấm lòng nồng nàn yêu đời mãnh liệt của Xuân Diệu .Cách điệp cấu trúc “ Này đây … của … ” cũng chính là sự khẳng định chắc chắn mồng nhiệt và hăng say vẻ đẹp của mùa xuân trên mảnh đất thực tại, hay chính là muốn tôn vinh quyền riêng tư tính thành viên hóa cao độ, rất đúng với thời kì cái tôi được giải phóng trong thơ mới .Ngôn ngữ giàu sức gợi, những từ láy đầy sức biểu cảm đã góp thêm phần tạo ra sự thành công xuất sắc của đoạn thơ. Những hình ảnh thơ trẻ trung, tươi mới, táo bạo “ ong bướm, tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh lè, cành tơ phơ phất, khúc tình si, thần Vui ” đã góp thêm phần cho thấy lòng yêu đời và ham sống bồng bột của Xuân Diệu .Với tấm lòng yêu đời, yêu sống mãnh liệt Xuân Diệu đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, ngọt ngào, điệu đàng và thanh tân tươi tắn bởi cặp mắt “ xanh non và rờn biếc ”. Đống thời thấy được năng lực của nhà thơ với bộ y phục tối tân của mình đã làm say đắm tâm hồn bao trái tim fan hâm mộ về màu xuân, về tình yêu .Tiếp theo Phân Tích Vội Vàng Khổ 2, mời bạn đọc nhiều hơn với trọn bộ 🔥 Cảm Nhận Bài Thơ Tràng Giang 🔥 rực rỡ và ý nghĩa . Văn Mẫu Phân Tích Vội Vàng Khổ 2 Văn Mẫu Phân Tích Vội Vàng Khổ 2 san sẻ những dòng cảm nhận rực rỡ để bạn đọc cùng tìm hiểu thêm và chiêm nghiệm .Xuân Diệu là một nhà thơ Mới xuất sắc và đạt nhiều thành tựu của văn học Nước Ta. Một trong những bài thơ hay nhất của ông là bài thơ “ Vội vàng ” trích trong tập “ Thơ thơ ” .Thi phẩm mang đến cho đọc giả một bức tranh mùa xuân tươi mới và những cảm quan nhân sinh đầy mới lạ. Đoạn 2 của bài thơ là đoạn văn thể hiện thâm thúy nhất về triết lý thời hạn và cuộc sống . ” Xuân đương tới nghĩa là xuân đương quaXuân còn non nghĩa là xuân sẽ giàMà xuân hết nghĩa là tôi cũng mấtLòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chậtKhông cho dài thời trẻ của nhân gian.” Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ đã dựng lên bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, cùng với đó là tình yêu đến cháy bỏng của người thi sĩ thì đến khổ thơ thứ 2, Xuân Diệu lại biểu lộ sự khắc khoải trước những bước tiến của thời hạn . Dường như, sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân ấy ý thức rất rõ sự chảy trôi đến mức vô tình của thời gian. Trước một mùa xuân với sắc hương rực rỡ quyến rũ mê hoặc ấy, tác giả cũng tận hưởng, cũng thưởng thức đấy thôi nhưng lòng vẫn lo sợ. Lỡ sợ rằng “ xuân đương tới ” rồi xuân cũng sẽ “ đương qua ”, xuân còn non không có nghĩa là xuân sẽ không già, bởi mỗi phút giây quá đi là đời người lại thêm ngắn lại. Thời gian chẳng thể níu giữ được mùa xuân, được tuổi trẻ, được thanh xuân, được đời người .Thời gian, tuổi trẻ, chả khi nào hoàn toàn có thể quay lại, bởi thế mà từng giấy đều phải trân trọng, phải vội vàng sống kẻo lỡ những thành xuân cuộc sống. Sự phối hợp những động, tính từ trái nghĩa “ tới ” – “ qua ” ; ” già ” – “ non ”, đã cho thấy cảm quan của thi nhân trước thời hạn đầy tinh xảo .Mỗi ngày, mỗi tháng năm qua đi tháng năm qua đi đời người thêm phần ngắn lại, khi mà ta không còn cảm nhận được mùa xuân nữa nghĩa là đời người không còn, sinh thể vĩnh viễn xa rời cuộc sống .Dù biết lòng người thì rộng, còn bao khát khao, bao tham vọng và những tham vọng đấy nhưng biết làm thế nào được khi thời hạn càng rút ngắn, khi lượng trời hữu hạn, tuổi trẻ nhân gian đâu có chịu dài. Cảm nhận được sự vội vã ấy, nhà thơ càng không an tâm, càng thảng thốt, nghẹn ngào ” Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoànNếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lạiCòn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãiNên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời” Đất trời to lớn, ngoài hành tinh bát ngát, con người nhỏ bé, đời người hữu hạn. Phải đồng ý thực sự dẫu biết rằng mùa xuân tuần hoàn đấy thôi nhưng tuổi trẻ đâu có tuần hoàn, đâu thể thắm lại những lần như thuở còn sung sức, còn dồi dào nhiệt huyết .Thế nên nỗi hụt hẫng, bâng khuâng rợn ngợp cả đất trời. Mùi chia li cũng bao trùm lấy cả sự vô tận của thời hạn, khoảng chừng không cách biệt của khoảng trống “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôiKhắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệtCon gió xinh thì thào trong lá biếcPhải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thiPhải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.” Một lẽ thường của tạo hoá, một quy luật trần gian vạn vật đều không tránh khỏi. Vị thời hạn rớm màu chia lìa, núi sông than thầm lời tiễn biệt, những cơn gió xuân vốn dạt dào đến thế cũng thều thào trong tiếng nghẹn .Tiếng vàng anh ru khúc nhạc tình cũng đành ngừng lại. Có lẽ chúng đều sợ thời hạn, sợ những chia lìa, nước mắt, sợ những phai tàn, héo úa . “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm” Đến sau cuối, chẳng khi nào hoàn toàn có thể làm được những điều mình mong ước nếu cứ mãi đợi chờ, mãi kỳ vọng. Tiếng “ ôi ” thật nhẹ nhàng mà cũng thật tha thiết, vừa như hụt hẫng lại vừa như thúc giục mọi người hãy hành vi, hành vi ngay giờ đây “ Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm ”Hãy nhanh nhanh chạy đua với thiên hà, với thời hạn nhân lúc “ mùa chưa ngả chiều hôm ”, nhân lúc màu lá phải chưa ngả, mùa chia tay chưa đến .Câu cầu khiến “ Mau đi thôi ” như một lời thức tỉnh những ai đang u mê ngập chìm trong sự chậm trễ, trễ nải và thơ ơ hãy sống nhanh, sống vội và sống có nghĩa vụ và trách nhiệm. Đừng bỏ lỡ thành xuân bởi những tháng năm sống phí, sống hoài .Đoạn thơ không quá dài nhưng đã gửi gắm biết bao nhiêu những ân tình của người viết, tác giả đã mang đến cho fan hâm mộ, đặc biệt quan trọng là những người trẻ tuổi một cảm quan mới mẻ và lạ mắt về lẽ sống để học tập .Thơ Xuân Diệu phải chăng chính là “ lời nói của một tâm hồn yêu đời ” như vậy. Đọc đoạn thơ, em thấy mình cần phải gắng sức mỗi ngày, tận dụng thời hạn để sống, học tập và thao tác có ý nghĩa hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật đẹp, thật toàn vẹn .Tiếp tục với Phân Tích Vội Vàng Khổ 2, Tặng bạn trọn bộ 😁 Cảm Nhận Về Bài Thơ Đất Nước 😁 . Phân Tích Vội Vàng 2 Khổ Đầu Phân Tích Vội Vàng 2 Khổ Đầu với những hình ảnh thơ độc lạ và mê hoặc cũng những quan điểm nhân sinh đặc biệt quan trọng của riêng hồn thơ Xuân Diệu .Nhắc đến tên tuổi của nhà thơ Xuân Diệu – ông vua của thơ tình, là hoàng tử của tình yêu. Nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới, là nhà thơ bị ảnh hưởng tác động nhiều nhất bởi thơ ca phương Đông .Là nhà thơ bị ám ảnh bởi bước tiến thời hạn. Một trong những bài thơ tiêu biểu vượt trội trong phong thái Xuân Diệu phải kể đến đó là bài thơ “ Vội Vàng ”, bông hoa đầu mùa đầy hương sắc rạng danh cả một tài thơ thế kỉ, được rút ra từ tập “ Thơ Thơ ” .Đến với 13 câu thơ đầu, biểu lộ rõ ý tưởng sáng tạo vô cùng táo bạo và đầy lãng mạn của nhà thơ. Vì vậy mà Xuân Diệu được ca tụng là “ Ông hoàng thơ tình ” “Tôi muốn tắt nắng điCho màu đừng nhạt mấtTôi muốn buộc gió lạiCho hương đừng bay ong bướm này đây tuần trăng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng miMỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửaTháng giêng ngon như một cặp môi gầnTôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửaTôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân” Bốn câu thơ mở đầu bài thơ, Xuân Diệu biểu lộ ý tưởng sáng tạo vô cùng táo bạo và đầy lãng mạn. Cái tôi, cái khát vọng mãnh liệt “ muốn tắt nắng ” để gam màu đừng nhạt phai, “ muốn buộc gió ” để hương sắc đừng bay đi .Ước mơ được đoạt lấy, được nắm lấy quyền uy của thiên hà. Ngưng đọng thời hạn, ngưng đọng khoảng trống, để nhà thơ hoàn toàn có thể ngắm nhìn và tận thưởng. Nhà thơ đã lấy cái tôi chủ quan của mình để làm biến hóa được quy luật của tự nhiên .Muốn níu giữ thời hạn làm ngưng đọng cả khoảng trống, một sáng tạo độc đáo táo bạo nhưng đầy lãng mạn. Điệp từ “ Tôi muốn ” làm điển hình nổi bật cái khát vọng mãnh liệt của đời sống bởi vạn vật thiên nhiên mùa xuân đầy tươi đẹp và đầy sức sống . “Của ong bướm này đây tuần trăng mậtNày đây hoa của đồng nội xanh rìNày đây lá của cành tơ phơ phấtCủa yến anh này đây khúc tình siVà này đây ánh sáng chớp hàng mi” Nghệ thuật được sử dụng trong 6 câu thơ trên là thẩm mỹ và nghệ thuật điệp ngữ “ này đây ”, mang ý nghĩa là lý giải. Xuân Diệu tìm ra thiên đường ở ngay trên mặt đất, là mùa xuân của cuộc sống, là mùa xuân của sự sinh sôi nảy nở, mùa của cái mới, mùa của mọi vẻ đẹp, mùa của sắc xuân hoa lá .“ Của ong bướm ” phối hợp với cụm từ “ tuần tháng mật ” nó biểu lộ vẻ đẹp của đôi lứa đang say sưa tình xuân. Hình ảnh “ xanh tươi ” nó đem đến cho tất cả chúng ta đó là sức sống trải rộng lên bức tranh vạn vật thiên nhiên mùa xuân của nhà thơ .Xuân Diệu liên tục sử dụng “ này đây ” trình diện những vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên, chỉ ra những vẻ đẹp của cuộc sống, phô bày những vẻ đầy mang đầy sức sống, nhựa sống mới. Là vẻ đẹp của “ chim yến ”, “ chim anh ” từng đôi say sưa khúc tình si .Vừa là nghệ thuật và thẩm mỹ liệt kê, vừa là nghệ thuật và thẩm mỹ điệp ngữ, Xuân Diệu nhấn mạnh vấn đề rằng vẻ đẹp của cuộc sống đó chính là mùa xuân .“ Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa ”Mỗi ngày trôi qua so với Xuân Diệu là một ngày thực sự vui tươi, niềm hạnh phúc. Ông trân trọng từng giây từng của cuộc sống . “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửaTôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân” Phải là nhà thơ hiểu về nụ hôn, phải là nhà thơ rất phương Tây, phải là nhà thơ rất mới như Xuân Diệu. Ông sử dụng “ ngon ” quy đổi cảm xúc, ví một khái niệm thời hạn là trừu tượng với một hình ảnh là “ một cặp môi gần ” .Xuân Diệu vẽ ra vẻ đẹp của bức tranh vạn vật thiên nhiên mùa xuân, thì ở ngay một câu thơ “ Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng 50% ” lại có hai luồng xúc cảm. Khi cảm nhận và giang cánh tay tận thưởng hết vẽ đẹp cuộc sống, là bức tranh vạn vật thiên nhiên của mùa xuân, là những gì đẹp nhất của đời sống .“ Nhưng vội vàng 50% ” đây là hai luồng xúc cảm trái chiều nhau. Ngay khi đang sung sướng nhất, đang ở độ tuổi sung mãn nhất vậy mà nhà thơ Xuân Diệu đã biết hụt hẫng mùa xuân. Bài thơ này được viết khi Xuân Diệu còn quá trẻ vậy mà ông đã hụt hẫng tuổi thanh xuân .Một dấu chấm ngắt đôi câu thơ, để chứng minh và khẳng định hai luồng xúc cảm trái chiều nhau. Xuân Diệu sung sướng khi tận thưởng tuổi thanh xuân nhưng cũng hụt hẫng vì tuổi thanh xuân không trở lại khi nào .“ Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân ”Không chờ thời hạn trôi qua, không chờ đến mùa hạ mới nhớ đến mùa xuân. Không chờ tuổi trẻ trôi qua mới biết hụt hẫng tuổi thanh xuân của mình .Với nhịp điệu thơ gấp gáp, với bức tranh mùa xuân, với câu từ mới, vật liệu mới, thi liệu mới, với một cái tôi đầy bản lĩnh của Xuân Diệu. Ông đưa ra một lí lẽ một triết lí sống mới mà đến tận ngày thời điểm ngày hôm nay vẫn khiến cho những yêu văn chương phải thổn thức .Mặc dù Xuân Diệu được ca tụng là ông hoàng thơ tình nhưng ở đây Xuân Diệu lại không viết về tình yêu mà là viết về một lí lẽ sống, một ý niệm sống, một cách nhìn nhận về đời sống rất mới mẻ và lạ mắt, rất Xuân Diệu .Hãy vội vàng, hãy luôn luôn sống và cháy hết mình với đời sống. Hãy luôn luôn sống để không phí phạm một phút một giây nào với cuộc sống này .Bên cạnh Phân Tích Vội Vàng Khổ 2, mời bạn đón đọc tuyển tập 🌜 Thơ Mất Điện 🌜 mê hoặc . Dàn Ý Phân Tích Vội Vàng Khổ 2 Chia sẻ Dàn Ý Phân Tích Vội Vàng Khổ 2 vừa đủ ý và sát nhất với chương trình học để những bạn học viên cùng tìm hiểu thêm . I. Mở bài giới thiệu về đoạn 2 bài thơ Vội vàng Ví dụ Trong tổng thể những tác phẩm của Xuân Diệu, một tác phẩm thơ có sự phối hợp thuần thục và độc lạ về mạch cảm hứng và triết lí thâm thúy là bài thơ Vội vàng. Bài thơ biểu lộ niềm mê hồn cái đẹp của vạn vật thiên nhiên, niềm yêu vạn vật thiên nhiên thâm thúy của tác giả trong đời sống .Bên cạnh niềm mê hồn vạn vật thiên nhiên và đời sống thì tác giả còn bộc lộ nỗi lo ngại của mình trước thời hạn và cuộc sống, hình ảnh này được biểu lộ rõ qua đoạn 2 của bài thơ. Chúng ta cùng đi khám phá đoạn 2 của bài thơ để hiểu rõ về nổi lo ngại và do dự của tác giả về đời sống và thời hạn . II. Thân bài phân tích đoạn 2 của bài thơ Vội vàng Mở đầu đoạn thơ Nỗi vui sướng vội vàng và chớp nhoáng của nhà thơ Sự đam mê về vạn vật thiên nhiên, đời sống hòa lẫn sự lo ngại về qua nhanh của thời hạn, của bộn bè đời sống Tác giả ý thức về sự hữu hạn của thời gian Thời gian ngày càng trôi đi Con người, mọi vật đều sẽ thay đổi theo thời gianTác giả cảm thấy lo lắng, sợ hãi trước sự trôi đi của thời gian Tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt của tác giả Khát vọng sống vô cùng để cùng hòa nhịp với cuộc sống của tác giả Yêu cuộc sống đến nồng nàn, tha thiếtNiềm ham sống, ham được sống và chưa toại nguyên cuộc sống mình đang sống III. Kết bài nêu cảm nhận của em về đoạn 2 bài thơ Vội Vàng Ví dụ Đoạn 2 bài thơ Vội vàng biểu lộ nỗi lo ngại của tác giả về thời hạn và đời sống. đồng thời đoạn 2 còn bộc lộ mong ước đời sống, mong ước được sống hòa cũng vạn vật thiên nhiên của tác giả .Cùng với Phân Tích Vội Vàng Khổ 2, Tặng Ngay bạn tuyển tập 💧 Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ 💧 giàu xúc cảm ! Phân Tích Khổ 2 Vội Vàng Phân Tích Khổ 2 Vội Vàng – khổ thơ dài chiếm nhiều dung tích nhất của bài thơ và cũng là khổ thơ có những hình ảnh thơ độc lạ nhất .“ Vội vàng ’ ’ là một trong những bài thơ rực rỡ nhất trong tập “ Thơ thơ ” 1938 . Vượt qua dòng chảy thời hạn hơn 60 năm rồi, mà những sáng tạo độc đáo mới mẻ và lạ mắt về thời hạn, về tuổi xuân, về tình yêu đời, yêu đời sống – cùng với một giọng thơ nồng nhiệt đắm say vẫn hấp dẫn tất cả chúng ta một cách kì quặc .Đây là đoạn thơ trích trong phần 2 bài “ Vội vàng ” nói lên sự cảm nhận về thời hạn của thi sĩ Xuân Diệu “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương quaXuân còn non, nghĩa là xuân sẽ xuân hết, nghĩa là tôi cũng mấtLòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãiNên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôiKhắp sông núi vẫn than thẩm tiễn biệt …” Hai câu thơ đầu đoạn, với cách ngắt, nhịp 3/5, đọc lên ta cảm thấy cái nhún nhảy của mùa xuân, của thời hạn “Xuân dương tới / nghĩa là xuân dương quaXuân còn non / nghĩa là xuân sẽ già”. Các từ ngữ “ đương tới ” với “ đương qua ”, “ còn non ’ ” với “ sẽ già ” tương ứng, trái chiều nhau, diễn đạt mùa xuân và thời hạn hoạt động không ngừng. Bước đi của mùa xuân, dòng chảy của thời hạn là mải miết, vô tận. Trong hiện tại “ đang tới ” đã có màu li biệt “ đương qua ” .Chữ “ đang ” chuyển thành chữ “ đương ” mộ cách nói điệu đà, rất thơ. Trong hình dáng “ còn non ” thời điểm ngày hôm nay đã báo hiệu một tương lai “ sẽ già ”. Cách cảm nhận của thi sĩ về thời hạn và mùa xuân là tinh xảo và biểu cảm .Đó là một sáng tạo độc đáo rất văn minh. Cũng chữ “ non ” và chữ “ già ” ấy, ông có những những cảm nhận rất độc lạ bằng một tâm hồn lãng mạng với cặp mắt xanh non . “Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biếtTrong gặp gỡ đã có mầm ly biệt…… Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…”“Giục giã” Và ông cũng nhìn thấy sự vật tăng trưởng và thay đổi không ngừng. Mùa xuân thời hạn và sự sống thật vô cùng kì diệu “Mấy hôm trước còn hoaMới thơm đây ngào ngạtThoáng như một nghi ngờTrái đã liền có thật”.“Quả sấu non trên cao” Bảy câu thơ tiếp theo nói lên nghịch lí giữa tuổi trẻ, đời người với thời hạn và ngoài hành tinh. Và đó cũng là thảm kịch của con người, đời người. Khi “ xuân hết ”, tuổi trẻ đi qua “ nghĩa là tôi cũng mất ”. Mất ý vị cuộc sống. Tuổi trẻ đáng yêu biết bao ! Mỗi người chỉ có một thời son trẻ. Cũng như thời hạn trôi qua, tuổi trẻ một đi không trở lại “ Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất ” .“ Lượng trời cứ chật ” mà “ lòng tôi rộng ”, muốn trường sinh bất tử, muốn trẻ mãi không già. Quy luật của sự sống thật vô cùng nghiệt ngã “ Không cho dài thời trẻ của nhân gian ”. “ Hảo hoa vô bách nhật – Nhân thọ vô bách tuế ” Nguyễn Du . “ Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi … ” Tục ngữ .Một lần nữa thi sĩ lại đặt ngôn từ trong thế tương phản giữa “ rộng ” với “ chật ”, để nói lên cái nghịch lí của đời người. Cũng là một cách cảm nhận thời hạn rất thực . “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chậtKhông cho dài thời trẻ của nhân gian” Xuân của bốn mùa thu thì tuần hoàn xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận nhưng đời người chỉ có một thời thanh xuân. Tuổi trò “ chẳng hai lần thắm lại ”. Vũ trụ đất trời thì vĩnh hằng, vô hạn. trái lại đời người thì hữu hạn .Kiếp nhân sinh nhiều thảm kịch. Ai cũng muốn trẻ mãi không già, ai cùng muốn được sống mãi với tuổi xanh, tuổi hoa niên. Tiếng thơ cất lên như một lời than hụt hẫng … Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoànNếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãiNên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” “ Tiếc cả đất trời vì không được trẻ mãi để tận thưởng mọi cái đẹp của vạn vật thiên nhiên và cuộc sống. Đó là lòng yêu đời và ham sống, khao khát được sống hết mình với tuổi trẻ “Mười chín tuổi, hỡi những nàng má rít chim, là tuổi ước mơ hoa!Hãi chàng trai kiều diễm mãi vui chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở!”“Đẹp” – Xuân Diệu “ Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại ” cùng như “ Mười chín tuổi ! Chẳng hai lần hoa nở ”, đó là thảm kịch của người đời, xưa và nay. Có ham sống và yêu đời mới cảm nhận thâm thúy thảm kịch ấy. Vì thế không được vung phí thời hạn và tuổi trẻ .Hai câu thơ cuối dào dạt xúc cảm. Nhà thơ xúc động lắng nghe bước tiến của thời hạn, tiếng “ than thầm tiễn biệt ” của sông núi, của cảnh vật. Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời hạn trôi đi qua “ mùi ”, “ vị ” của năm tháng “ chia lìa ” trong dòng chảy vô tận. Một cách cảm nhận thời hạn rất thơ, rất tinh xảo “Mùi tháng năm đều rớm vị chia sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu Sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Một quan niệm nhản sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sông trong tình vêu – đó là những ý tưởng rất đẹp. ❤ ️ ️ Ngoài Phân Tích Vội Vàng Khổ 2, mời bạn liên tục đón đọc những nội dung mê hoặc khác được biên soạn riêng có tại ❤ ️ ️
phân tích đoạn 2 vội vàng